Để có góc nhìn thực tiễn về sản xuất và nhận diện sản phẩm hữu cơ trên thị trường phóng viên Tạp chí Hữu cơ Việt Nam đã có cuộc trao đổi với bà Từ Thị Tuyết Nhung - UVBTV Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam (VOAA).
PV: Xin bà cho biết, mục đích của phương pháp sản xuất hữu cơ là gì?
Bà Từ Thị Tuyết Nhung: Sản xuất hữu cơ là sử dụng các phương pháp thực hành nông nghiệp bền vững, không sử dụng các đầu vào hóa chất tổng hợp như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân bón hóa học, chất kích thích sinh trưởng, chất bảo quản hóa học,… Thay vào đó là sử dụng các loại phân hữu cơ như phân ủ, phân xanh, phân lên men từ phụ phẩm thực vật, ốc, cá, từ rác hữu cơ nhà bếp hoặc phân hữu cơ vi sinh được công nhận cho phép dùng trong sản xuất hữu cơ… Để bảo vệ sức khỏe cây trồng, chỉ sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học không có nguồn gốc biến đổi gen, ví dụ như các nấm xanh (Metarhizium), nấm trắng (Beauveria), nấm (Trichoderma), vi khuẩn BT… trong danh mục được phép sử dụng của tiêu chuẩn hữu cơ.
![]() |
Bà Từ Thị Tuyết Nhung (đứng trước) luôn đồng hành cùng bà con nông dân. |
Mục đích của sản xuất hữu cơ là tạo ra các sản phẩm nông nghiệp an toàn không tồn dư chất độc hại cho sức khỏe của con người, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái và tài nguyên của đất nước. Sản xuất hữu cơ không có nhiều lựa chọn thay thế các đầu vào như sản xuất thông thường, vì thế người sản xuất hữu cơ phải có chiến lược phòng ngừa, sử dụng phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp tập trung vào việc tăng đa dạng sinh học, tạo ra môi trường sống thích hợp cho côn trùng, thiên địch tự nhiên góp phần điều tiết chuỗi thức ăn trong hệ sinh thái, đồng thời sử dụng phân hữu cơ nuôi đất, nuôi cây sinh trưởng phát triển tốt tạo ra sức đề kháng tự nhiên cho cây trồng, chống lại sâu, bệnh mà không cần sử dụng các hóa chất độc hại để kiểm soát.
Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp hữu cơ giúp nông dân nâng cao kiến thức, tay nghề, thay đổi nếp nghĩ, cách làm, từ tư duy truyền thống sang an toàn, trách nhiệm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Hơn thế, giá trị nông sản hữu cơ cũng vượt trội so với giá bán thông thường. Đơn cử như các mặt hàng quế, hồi, điều nhân, hồ tiêu hay cơm dừa, giá bán dòng sản phẩm hữu cơ đạt tiêu chuẩn chứng nhận Organic EU và Organic USDA cao hơn từ 10% đến 25%, thậm chí cao hơn nữa so với sản phẩm thông thường cùng loại.
Không những thế, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng hữu cơ tại nhiều thị trường, như: châu Âu, Hoa Kỳ ngày một gia tăng, do thay đổi thói quen ăn uống, người tiêu dùng có xu thế ăn các sản phẩm sạch có nguồn gốc tự nhiên, có tác dụng giảm cân, thay thế thịt và các sản phẩm thông thường.
PV: Bà nhìn nhận như thế nào về thực trạng hiện nay của sản phẩm hữu cơ trên thị trường?
Bà Từ Thị Tuyết Nhung: Theo Liên đoàn các tổ chức nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM), nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất nhằm duy trì sức khỏe của đất, hệ sinh thái và con người. Để sản phẩm được ghi nhãn bán là “hữu cơ” người sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt của tiêu chuẩn hữu cơ mà họ chọn làm theo. Loại trừ các đầu vào hóa học tổng hợp là bắt buộc, sản xuất được dựa vào nguyên lý của tiến trình sinh thái, tăng cường đa dạng sinh học và khép kín chu trình thích nghi với điều kiện địa phương thay vì sử dụng các yếu tố đầu vào bất lợi khác. Nông nghiệp hữu cơ kết hợp phương pháp canh tác truyền thống với những tiến bộ khoa học kỹ thuật có chọn lọc, mang lại lợi ích cho môi trường, thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người và mọi đời sống có liên quan.
![]() |
Sản phẩm hữu cơ đang là xu hướng người tiêu dùng quan tâm đến sức khỏe tìm kiếm và lựa chọn. |
Hiện nay nhiều sản phẩm “gắn tên” hữu cơ trên thị trường không biết có đúng tiêu chuẩn hay không, khi người tiêu dùng luôn đặt câu hỏi liệu sản phẩm có thực sự là hữu cơ hay không? Đặc biệt công tác quản lý các sản phẩm hữu cơ trên thị trường hiện nay vẫn đang còn gặp nhiều thách thức, đáng chú ý một số thuật ngữ thường dùng hiện nay như hướng hữu cơ rất dễ gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Làm hữu cơ là phải làm theo tiêu chuẩn, theo Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ do Chính phủ ban hành. Bên cạnh đó làm hữu cơ thì người sản xuất phải công bố tiêu chuẩn hữu cơ mình làm và phải trải qua giai đoạn chuyển đổi nhất định trước khi được đánh giá và cấp chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ.
PV: Cần làm gì để nâng cao kiến thức và thay đổi tư duy người sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng như người tiêu dùng, thưa bà?
Bà Từ Thị Tuyết Nhung: Mặc dù diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam nhỏ nhưng vẫn có rất nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, giúp nâng tầm sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Tính đến cuối năm 2023, cả nước hiện có 495.000 ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chiếm 4,3% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, chiếm 0,69% diện tích sản xuất hữu cơ của thế giới.
Sản phẩm hữu cơ đang là xu hướng người tiêu dùng quan tâm đến sức khỏe tìm kiếm và lựa chọn. Để sản xuất ra sản phẩm đúng với giá trị hữu cơ, người sản xuất phải dám đánh đổi những tổn thất nhất định ở giai đoạn đầu chuyển đổi, rất cần người tiêu dùng thấu hiểu, chia sẻ sẽ là nguồn động lực to lớn giúp nông dân tiếp tục sản xuất.
Hiện Trung tâm hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ (CODAS), trực thuộc Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam đang thực hiện một nghiên cứu liên ngành với nhiều đối tác (Đại học Bonn, Học viện Nông nghiệp, Đại học Y tế Công cộng, Viện rau quả Trung ương, Viện nghiên cứu sinh thái và chính sách xã hội” về “Dự báo và giám sát can thiệp dinh dưỡng - NIFAM (Nutrition Intervention Forecasting and Monitoring)”.
Sản xuất hữu cơ, không chỉ tuân thủ các yêu cầu ở trên đồng ruộng, mà phải quản lý ở tất cả các khâu trong chuỗi giá trị từ canh tác trên đồng ruộng, thu hoạch, chế biến, phân phối để đảm bảo nguyên vẹn giá trị hữu cơ đến tận bàn ăn của người tiêu dùng.
Nhằm nâng cao kiến thức cho người tiêu dùng hiểu về sản phẩm hữu cơ, biết cách nhận diện các nhãn thực phẩm khác nhau để lựa chọn thực phẩm an toàn, bổ dưỡng với giá cả hợp lý là một trong những hoạt động của nghiên cứu NIFAM với mục tiêu xác định và thực hiện các biện pháp can thiệp hiệu quả về chi phí cải thiện bền vững chế độ ăn uống của cư dân ở đô thị Hà Nội, giảm tình trạng suy dinh dưỡng dưới các hình thức khác nhau. Từ đó giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như ung thư, tim mạch, tiểu đường,... tăng cường sức đề kháng của con người, giúp phòng chống bệnh tật; thúc đẩy phát triển một xã hội bền vững.
PV: Xin trân trọng cảm ơn bà.