![]() |
| Toàn cảnh Hội nghị tháo gỡ khó khăn, rào cản thương mại, mở rộng phát triển thị trường xuất khẩu gỗ và lâm sản. |
Ngày 21/11, tại thành phố Hồ Chí Minh, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh, Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ thành phố Hồ Chí Minh (HAWA) tổ chức Hội nghị tháo gỡ khó khăn, rào cản thương mại, mở rộng phát triển thị trường xuất khẩu gỗ và lâm sản.
![]() |
| Ông Nguyễn Văn Diện, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm phát biểu. |
Bức tranh sáng tối của ngành công nghiệp tỷ đô
Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Diện, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm đã công bố những con số “biết nói” về sức sống của ngành gỗ. Tính đến hết tháng 11/2025, kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản ước đạt 16,5 tỷ USD. Con số này thể hiện mức tăng trưởng 5,4% so với cùng kỳ, nhưng vẫn thấp hơn kịch bản đặt ra ban đầu là khoảng 6%, cho thấy đà phục hồi còn mong manh trước những biến động khách quan từ thị trường quốc tế và thiên tai trong nước.
Việt Nam hiện nằm trong nhóm quốc gia xuất khẩu gỗ hàng đầu thế giới. Không chỉ đứng trong tốp đầu về kim ngạch, cấu trúc thị trường cũng ngày càng đa dạng với sự hiện diện tại các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc… Song, để giữ vững vị thế này, ngành gỗ buộc phải bước vào giai đoạn tái cấu trúc, cần xem xét và điều chỉnh từ nguồn cung nguyên liệu đến mô hình sản xuất và tổ chức thị trường.
Điểm sáng nổi bật được nhóm nghiên cứu các hiệp hội gỗ và Forest Trends nhấn mạnh là sự chuyển dịch căn bản trong cơ cấu nguồn cung nguyên liệu nhập khẩu. Trong 9 tháng đầu năm 2025, lượng gỗ nguyên liệu nhập từ các vùng địa lý được đánh giá là tích cực, ít rủi ro pháp lý đã đạt khoảng 3,47 triệu m³ quy tròn, chiếm tới 75% tổng lượng nhập khẩu, tăng mạnh so với mức khoảng 60% của năm 2022. Điều này cho thấy cộng đồng doanh nghiệp đã chủ động “làm sạch” chuỗi cung ứng, giảm phụ thuộc vào các nguồn gỗ rủi ro để thích ứng với các tiêu chuẩn toàn cầu về chống mất rừng, chống gỗ bất hợp pháp.
Song song với đó, thị trường nội địa đang dần trở thành “bệ đỡ” vững chắc. Mức tiêu dùng đồ gỗ trong nước được ghi nhận tăng trưởng trung bình khoảng 8%/năm, dự kiến cán mốc trên 4 tỷ USD trong năm 2025. Nếu được tổ chức tốt, thị trường nội địa sẽ là “vùng đệm” quan trọng, giúp doanh nghiệp san sẻ rủi ro khi xuất khẩu gặp biến động, đồng thời là không gian để thử nghiệm sản phẩm, phát triển thương hiệu Việt.
![]() |
| Ông Hồ Trúc Thanh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TPHCM cho biết, thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm chế biến gỗ lớn nhất cả nước, hiện có hơn 5.120 doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng. |
EUDR: “Thẻ xanh” không đồng nghĩa miễn trừ trách nhiệm
Một trong những rào cản kỹ thuật lớn nhất được thảo luận sôi nổi tại hội nghị là Quy định chống mất rừng của Liên minh châu Âu (EUDR). Tháng 5/2025, Ủy ban châu Âu chính thức xếp Việt Nam vào nhóm quốc gia “rủi ro thấp”, song đại diện Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm nhấn mạnh: đây chỉ là “tín hiệu tích cực”, hoàn toàn không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được miễn trừ trách nhiệm giải trình.
Tất cả sản phẩm gỗ xuất sang EU vẫn buộc phải truy xuất nguồn gốc đến tận tọa độ địa lý của từng lô đất sản xuất, cung cấp bộ hồ sơ pháp lý minh bạch về đất đai, lao động, môi trường, quản lý lâm sản và chứng minh không gây mất rừng, suy thoái rừng sau mốc 31/12/2020. Với những diện tích từ 4 ha trở lên, yêu cầu vẽ đa giác khép kín trên bản đồ, khai báo tọa độ cụ thể cho từng thửa đất càng làm tăng mức độ phức tạp.
Thực tiễn triển khai cho thấy hạ tầng dữ liệu đang là “nút thắt” lớn của lâm nghiệp Việt Nam. Hệ thống bản đồ rừng, bản đồ địa chính và dữ liệu vùng trồng chưa được liên thông đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong việc đối chiếu, xác minh. Quy định phải định vị tọa độ GPS cho từng lô đất canh tác tạo áp lực rất lớn về tài chính và công nghệ đối với nông hộ nhỏ lẻ và hợp tác xã - những đối tượng chiếm tỷ trọng lớn trong chuỗi cung ứng gỗ.
Một điểm rủi ro khác là cấu trúc nguồn nguyên liệu nhập khẩu, dù tỷ lệ gỗ đến từ vùng địa lý tích cực đã tăng, Việt Nam vẫn nhập khối lượng đáng kể gỗ cao su và một số loài gỗ khác từ các quốc gia láng giềng như Campuchia, Lào, đây là những nơi hệ thống truy xuất nguồn gốc còn hạn chế. Nếu không có giải pháp kiểm soát và chia sẻ dữ liệu tốt hơn, những mắt xích yếu này có thể kéo lùi nỗ lực tuân thủ của toàn chuỗi khi tiếp cận thị trường EU.
Chính vì vậy, nhiều ý kiến tại hội nghị đề xuất cần khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý và công cụ kỹ thuật để triển khai EUDR; chuẩn hóa bản đồ rừng, bản đồ địa chính; xây dựng cơ sở dữ liệu vùng trồng gắn với trách nhiệm xác nhận nguồn gốc đất đai ở cấp xã; tăng cường đào tạo cán bộ địa phương về dữ liệu không gian, viễn thám.
![]() |
| Bà Trương Thùy Linh, Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại cảnh báo về các vụ kiện phòng vệ thương mại. |
“Bão” phòng vệ thương mại từ thị trường Hoa Kỳ
Nếu EUDR là thách thức kỹ thuật, thì các biện pháp phòng vệ thương mại từ Hoa Kỳ là “đòn đánh” trực diện vào sức chịu đựng của doanh nghiệp. Hoa Kỳ hiện chiếm khoảng 55 - 56% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam - một mức độ phụ thuộc được chính các chuyên gia ví như “dao hai lưỡi”.
Theo bà Trương Thùy Linh, Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), tính đến hết tháng 10/2025, hàng hóa Việt Nam đã phải đối mặt gần 300 vụ điều tra phòng vệ thương mại từ 25 thị trường, vượt cả số vụ của cả năm 2023; riêng Hoa Kỳ chiếm tới trên 70 vụ và là thị trường điều tra nhiều nhất. Ngành gỗ nằm trong nhóm rủi ro cao với hàng loạt vụ việc liên quan đến gỗ dán, tủ bếp, tủ gỗ, đồ nội thất…
Nguy cơ đáng chú ý là khả năng Hoa Kỳ áp thuế theo Mục 232 (vì lý do an ninh quốc gia) với mức thuế suất từ 25% đến 50% đối với các mặt hàng thế mạnh như ghế gỗ bọc đệm, tủ bếp, bàn trang điểm, dự kiến có lộ trình tăng dần từ năm 2026. Song song, nhiều sản phẩm gỗ đang phải đối mặt với các cuộc điều tra kép về chống bán phá giá và chống trợ cấp. Việc Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường khiến doanh nghiệp bất lợi trong tính toán biên độ phá giá, khi cơ quan điều tra sử dụng dữ liệu chi phí của nước thứ ba.
Bà Trương Thùy Linh nhấn mạnh, nếu doanh nghiệp phớt lờ hoặc hợp tác không đầy đủ trong quá trình điều tra, mức thuế trừng phạt có thể lên đến 200 - 300%, đồng nghĩa với việc bị loại khỏi thị trường. Do đó, tham gia chủ động và minh bạch với các cơ quan điều tra không còn là “quyền lựa chọn” mà là điều kiện bắt buộc để tự bảo vệ mình.
Từ góc độ chính sách, Cục Phòng vệ thương mại khuyến nghị doanh nghiệp gỗ cần theo dõi sát các cảnh báo sớm; xây dựng hệ thống sổ sách kế toán, chứng từ minh bạch; tuyệt đối không tiếp tay cho hành vi chuyển tải bất hợp pháp; đa dạng hóa thị trường; đồng thời phát huy vai trò hiệp hội trong việc chia sẻ dữ liệu, chi phí và hỗ trợ pháp lý khi có vụ kiện.
![]() |
| Các doanh nghiệp cần chủ động về nguồn gốc nguyên liệu gỗ chế biến. |
Chiến lược vượt khó: Số hóa, minh bạch và đa dạng hóa
Để vượt qua giai đoạn bước ngoặt này, hội nghị thống nhất một số nhóm giải pháp chiến lược cho giai đoạn 2025 - 2030.
Về quản trị và công nghệ, ngành lâm nghiệp sẽ đẩy mạnh số hóa truy xuất nguồn gốc thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu rừng trồng quốc gia gắn với mã số vùng trồng; tích hợp dữ liệu với bản đồ rừng, bản đồ địa chính và hệ thống hồ sơ xuất - nhập khẩu. Việc cấp mã số rừng trồng đã được thí điểm cho hàng chục nghìn ha tại một số tỉnh, là nền tảng để nhân rộng trên phạm vi toàn quốc. Cùng với đó, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cam kết sớm ban hành hướng dẫn chi tiết về EUDR, phân quyền rõ cho cấp xã trong việc xác nhận nguồn gốc đất đai hợp pháp, giảm gánh nặng thủ tục cho người dân và doanh nghiệp.
Về chiến lược thị trường, đa dạng hóa được xác định là yêu cầu bắt buộc. Doanh nghiệp được khuyến nghị chủ động tiếp cận các thị trường tiềm năng như Trung Đông, Ấn Độ, Canada, Nam Mỹ; tận dụng tối đa ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA; đồng thời nâng tỷ trọng thị trường nội địa để giảm phụ thuộc vào một vài thị trường lớn.
Về phát triển bền vững, mở rộng diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý bền vững (FSC, VFCS/PEFC) là “tấm hộ chiếu” dài hạn. Hiện Việt Nam đã có khoảng 610.000 ha rừng được cấp chứng chỉ; nếu tiếp tục mở rộng, ngành gỗ sẽ chủ động hơn về nguồn nguyên liệu sạch, nâng giá trị sản phẩm và tạo lợi thế trong đàm phán thương mại.
Mục tiêu xuất khẩu 20 tỷ USD vào năm 2025 được nhìn nhận là thách thức nhưng không phải bất khả thi, nếu các giải pháp về thể chế, hạ tầng dữ liệu, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và chuyển đổi xanh được triển khai đồng bộ.
Thông qua hội nghị, có thể thấy rõ ngành gỗ Việt Nam đang chuyển trạng thái từ bị động ứng phó, sang chủ động thiết kế lại chuỗi cung ứng của chính mình. Trong “gọng kìm” rào cản môi trường và phòng vệ thương mại, con đường duy nhất để đi tiếp là lựa chọn minh bạch, số hóa và phát triển bền vững. Nếu làm được điều đó, mục tiêu giữ vững, thậm chí nâng cao vị thế quốc gia xuất khẩu gỗ hàng đầu thế giới sẽ không chỉ nằm trên những con số kim ngạch, mà còn được khẳng định bằng uy tín và trách nhiệm trên thị trường quốc tế.
Ngành gỗ Việt Nam đối mặt rủi ro thuế quan Mỹ, nhưng vẫn nhiều điểm sáng từ thị trường nội địa và nội lực doanh ... |
Bất chấp những biến động của thị trường, ngành gỗ Việt Nam vẫn tự tin hướng tới mục tiêu xuất khẩu 18 tỷ USD vào ... |
Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm vừa ban hành văn bản số 2283/LNKL-ĐT đề nghị Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành phố ... |