Chủ nhật 16/11/2025 04:12Chủ nhật 16/11/2025 04:12 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Nông nghiệp hữu cơ: Thị trường, thách thức và giải pháp

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Gần đây chúng ta nói nhiều về nông nghiệp hữu cơ, được coi là một giải pháp tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, trong bối cảnh càng ngày chúng ta càng thấy nguy cơ hiện hữu của “canh tác hóa học”, khai thác đến suy kiệt đất đai, nguồn nước.

Đây là chủ trương đúng đắn, nhưng còn khá mới mẻ, vì lâu nay chúng ta tập trung làm nông nghiệp an toàn nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Vì vậy, hiểu đúng bản chất của nông nghiệp hữu cơ, những khác biệt so với nông nghiệp an toàn, khó khăn thách thức, nhận diện thị trường, xu hướng phát triển để có bước giải pháp phù hợp là cần thiết.

Sự khác biệt giữa nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp an toàn

Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ không chỉ tuyệt đối an toàn cho người mà còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn khác về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, công bằng cho mọi sinh vật sống trong hệ sinh thái, bền vững cho hôm nay và mai sau. Nông nghiệp hữu cơ có nhiều đặc thù, khác biệt so với nông nghiệp an toàn:

Mô hình nhóm rau hữu cơ Xóm Mòng - Lương Sơn - Hòa Bình được PGS Việt Nam chứng nhận

Một là, cơ sở phải trải qua giai đoạn chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ ít nhất 12 tháng đối với cây ngắn ngày, 18 tháng đối với cây dài ngày hoặc tối thiểu 6 tuần đối với gia cầm lấy trứng hoặc 12 tháng đối với trâu, bò… (dự thảo TCVN mới về nông nghiệp hữu cơ). Trong giai đoạn này, phải thực hiện đúng tiêu chuẩn nhưng sản phẩm lại chưa được coi là hữu cơ.

Hai là, không sử dụng thuốc trừ sâu bệnh, phân bón, thuốc trừ cỏ, chất bảo quản, chất phụ gia là hóa chất tổng hợp; thuốc kháng sinh, hoóc môn tăng trưởng; không sử dụng sản phẩm từ công nghệ biến đổi gen, công nghệ nano, xử lý chiếu xạ; chỉ dùng kháng sinh, thuốc thú y tổng hợp khi không còn cách nào khác và nếu sử dụng quá 1 lần cho vật nuôi có vòng đời dưới 1 năm thì sản phẩm đó không còn là hữu cơ…

Ba là, vật tư, công nghệ đầu vào trong sản xuất hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên và theo danh mục tại tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ; ưu tiên sử dụng nguồn hữu cơ tại chỗ (xác thực vật, phân động vật…) để duy trì độ phì của đất và cân bằng dinh dưỡng cho cây trồng.

Bốn là, quan tâm đến cuộc sống của các thành viên trong hệ sinh thái, như hệ vi sinh vật trong đất, loài thiên địch hay đảm bảo diện tích tối thiểu về đồng cỏ, nơi chăn thả, chuồng trại/đầu con; giảm đau đớn, căng thẳng cho con vật khi giết mổ…

Năm là, sản phẩm hữu cơ phải được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn của tổ chức chứng nhận (bên thứ 3) hoặc của PGS - hệ thống bảo đảm cùng tham gia, áp dụng cho hộ nông dân và bán trong nước (Brazil, Ấn Độ thừa nhận).

Do yêu cầu rất cao như trên, nên sản xuất hữu cơ là khuyến khích, khác với sản xuất an toàn là bắt buộc. Gần đây, trên công luận có nói đến "sản xuất sạch", "sản phẩm sạch", tuy nhiên không có văn bản pháp lý nào quy định về điều này. Theo tôi nên thống nhất có 2 nhóm gồm sản phẩm an toàn (có 2 cấp độ: phù hợp quy chuẩn hoặc phù hợp VietGAP - khuyến khích, vì vẫn dùng hóa chất tổng hợp) và sản phẩm hữu cơ để người tiêu dùng dễ phân biệt. Không nên gọi "sản xuất theo hướng hữu cơ" đối với sản phẩm mới đáp ứng một số tiêu chí hữu cơ, chưa được chứng nhận, đây vẫn coi là sản phẩm an toàn.

Thách thức của nông nghiệp hữu cơ

Cần khẳng định làm nông nghiệp hữu cơ không dễ dàng, nhiều khó khăn và thách thức:

Một là, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp hơn so với sản xuất an toàn, do không dùng phân bón hóa học, hoóc môn tăng trưởng, công nghệ gen, công nghệ na nô...

Hai là, đối mặt với dịch bệnh do không dùng thuốc bảo vệ thực vật; hạn chế tối đa dùng thuốc thú y, kháng sinh tổng hợp, trong khi cơ sở hữu cơ và không hữu cơ nằm liền kề, đan xen, mặc dù có vùng đệm nhưng nguy cơ lây truyền dịch bệnh là rất cao.

Ba là, sản xuất hữu cơ tốn nhiều công lao động hơn (thu gom xác thực vật, làm phân hữu cơ, làm cỏ, bẫy bả…),.

Bốn là, giá thành sản phẩm hữu cơ cao hơn đáng kể so với sản phẩm an toàn do năng suất thấp, chi phí cao (lao động thủ công, phí chứng nhận, diện tích chăn thả, chuồng trại/đầu con lớn hơn…) nên thị trường giới hạn là nhóm khách hàng có thu nhập cao.

Vì vậy, vấn đề an ninh lương thực cần được tính đến khi xác định quy mô, lộ trình phát triển nông nghiệp hữu cơ và chỉ sản xuất hữu cơ khi có thị trường, hiệu quả cao hơn.

Thị trường và xu thế của nông nghiệp hữu cơ

Cần khẳng định nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu, ngày càng phát triển bởi vì nông nghiệp hữu cơ là loại hình nông nghiệp bền vững nhất. Thế giới ngày càng văn minh, người tiêu dùng không chỉ đòi hỏi cho mình mà còn cho thế hệ mai sau. Nhóm người tiêu dùng đó đang tăng dần và đó là lý do vì sao thị trường nông sản hữu cơ thế giới đang tăng trưởng mạnh mẽ.

Theo Viện nghiên cứu Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (FiBL) tổng giá trị của thị trường hữu cơ thế giới tăng bình quân 10 - 15% mỗi năm, từ 15,5 tỷ USD (1999) lên 28,7 tỷ USD (2004), 54,9 tỷ USD (2009), 63 tỉ USD (2012) và 80 tỉ USD (2014). Năm 2015 riêng thị trường thực phẩm và đồ uống đạt trên 81,6 tỷ USD, lớn nhất là Mỹ (27,1 tỷ USD), Đức (7,9 tỷ USD) và Pháp (4,8 tỷ USD)…

Ở trong nước, thị trường sản phẩm hữu cơ mới hình thành vài năm nay và đang tăng trưởng. Một bộ phận người tiêu dùng trung lưu ở thành phố, có nhu cầu sản phẩm hữu cơ, chủ yếu vì muốn đảm bảo an toàn thực phẩm. Một số mô hình hiệu quả như Rau hữu cơ PGS Thanh Xuân – Hà Nội, Lương Sơn, Tân Lạc – Hòa Bình, Văn Trác – Hà Nam; Ecolink-Ecomart, Oganic Đà Lạt, Phú Viễn - Cà Mau; TH (1.000 con bò sữa), Vinamilk (500 con bò sữa); lợn Bảo Châu, Hoa Viên (Hà Nội); nước giải khát TH Herbals…

Giải pháp phát triển nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ nước ta đang ở giai đoạn ban đầu, để phát triển bền vững theo tôi nên triển khai các biện pháp sau:

Mô hình nhóm rau hữu cơ Thanh Thủy - Trác Văn - Duy Tiên - Hà Nam được PGS Việt Nam chứng nhận

Một là, xác định rõ khung pháp lý tại dự thảo Nghị định nông nghiệp hữu cơ. Sản xuất hữu cơ không bắt buộc nhưng do tính đặc thù, giá bán cao nên rất dễ bị lợi dụng, làm thị trường hữu cơ không minh bạch, vi phạm quyền người tiêu dùng. Vì vậy, sản xuất hữu cơ phải theo tiêu chuẩn được nhà nước chấp thuận, được chứng nhận phù hợp, có nhãn, lô gô minh bạch… Nhà nước cần ưu tiên cho cơ sở sản xuất hữu cơ được hưởng các chính sách đã ban hành và có chính sách đặc thù đối với hộ nông dân, hợp tác xã. Cần xử lý tình trạng “treo đầu dê, bán thịt chó”; bảo vệ người sản xuất hữu cơ chân chính, thị trường hữu cơ non trẻ.

Hai là, sớm ban hành TCVN mới về nông nghiệp hữu cơ (thay thế TCVN 1141:2015). Đây là quy định kỹ thuật rất quan trọng, tiếp cận, hài hòa tiêu chuẩn quốc tế, nhưng phải cụ thể, “Việt Nam hóa” để nông dân hiểu và áp dụng được. Việc rà soát, chỉnh sửa, đặc biệt là bổ sung vật tư đầu vào được phép sử dụng là rất cần thiết; cần đổi mới mà vẫn tuân thủ các nguyên tắc hữu cơ để năng suất hữu cơ cao hơn, chi phí thấp hơn.

Ba là, phát triển thị trường sản phẩm hữu cơ ở trong và ngoài nước. Thị trường không tự nhiên mà có nên rất cần vai trò của doanh nghiệp liên kết với nông dân, vai trò khâu nối của Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam. Nhà nước cần hỗ trợ phát triển thị trường, ví dụ hỗ trợ “bữa ăn hữu cơ” tại các trường học, nhà ăn công cộng, các điểm bán lẻ; đưa sản xuất hữu cơ vào chương trình giáo dục các cấp; hỗ trợ các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức của người tiêu dùng… như kinh nghiệm của các nước .

Bốn là, ưu tiên những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, sản phẩm đang có thị trường xuất khẩu lớn để từng bước chuyển một phần sang sản xuất hữu cơ. Bên cạnh thực phẩm hữu cơ (rau quả, gạo, tiêu, cà phê, chè, sữa, thịt, trứng, tôm, cá tra…) nên quan tâm đúng mức tới dược liệu, mỹ phẩm hữu cơ; không chỉ sản phẩm tươi, thô mà cần chế biến đa dạng để có giá trị cao hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.

Năm là, ưu tiên quy hoạch vùng có điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi cho đối tương cây trồng, vật nuôi sản xuất hữu cơ; lựa chọn loài cây trồng, vật nuôi và đầu tư nghiên cứu tạo giống mới thích ứng, chống chịu sâu bệnh, ngoại cảnh bất lợi tốt.

Sáu là, muốn có một ngành sản xuất hữu cơ lớn mạnh, cần khuyến khích sản xuất các vật tư đầu vào (hạt giống, con giống hữu cơ; phân bón hữu cơ, vi sinh vật có ích, thức ăn chăn nuôi, thủy sản hữu cơ, thuốc thảo mộc...).

Bảy là, nông nghiệp hữu cơ rất thân thiện với môi trường. Nhà nước nên chính thức chấp nhận sản xuất hữu cơ là hoạt động thân thiện với môi trường, sản phẩm hữu cơ có chứng nhận được gắn Nhãn xanh Việt Nam mà không cần thủ tục xét duyệt và được hưởng ưu đãi, hỗ trợ theo luật bảo vệ môi trường.

khuyennong.lamdong.gov.vn

Bài liên quan

Bài 3: Nông nghiệp hữu cơ ở Nghệ An: Khi ý chí vượt khó khăn

Bài 3: Nông nghiệp hữu cơ ở Nghệ An: Khi ý chí vượt khó khăn

Mặc dù còn nhiều “điểm nghẽn” cần gỡ…nhưng việc phát triển nông nghiệp hữu cơ không còn là lựa chọn mang tính thử nghiệm, mà đã trở thành một giải pháp chiến lược nhằm xây dựng nền nông nghiệp tỉnh Nghệ An bền vững, an toàn và có giá trị gia tăng cao, đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh - sạch
Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Khơi dậy tiềm năng xanh từ chính sách

Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Khơi dậy tiềm năng xanh từ chính sách

Nông nghiệp hữu cơ đang dần trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy này. Với những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ, đặc biệt là Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về Nông nghiệp hữu cơ và Quyết định số 885/QĐ-TTg, cùng với sự vào cuộc của các địa phương, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được kỳ vọng sẽ phát triển vượt bậc trong giai đoạn 2025-2030, góp phần xây dựng nền nông nghiệp xanh, bền vững và hiện đại.
Đồng Tháp: Thành công bước đầu trên hành trình nông nghiệp hữu cơ

Đồng Tháp: Thành công bước đầu trên hành trình nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ đang mang lại lợi ích kinh tế và môi trường cho Đồng Tháp, thể hiện qua các mô hình sản xuất thành công và tiềm năng phát triển lâu dài.
Khánh Hòa: Hướng tới nông nghiệp hữu cơ, nâng tầm giá trị

Khánh Hòa: Hướng tới nông nghiệp hữu cơ, nâng tầm giá trị

Nông nghiệp hữu cơ đang trở thành hướng đi tất yếu tại tỉnh Khánh Hòa, đặc biệt ở các huyện miền núi, mang lại lợi ích về sức khỏe, môi trường và kinh tế, mở ra tương lai tươi sáng cho nông nghiệp.
Công nghệ Hàn Quốc đổ bộ vào thị trường thiết bị nông nghiệp Việt Nam

Công nghệ Hàn Quốc đổ bộ vào thị trường thiết bị nông nghiệp Việt Nam

Hàn Quốc đang đẩy mạnh xuất khẩu thiết bị nông nghiệp sang Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi sang nông nghiệp hữu cơ.
Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Làn gió mới cho bữa ăn sạch

Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Làn gió mới cho bữa ăn sạch

Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với gần 500.000 ha sản xuất, đáp ứng nhu cầu sản phẩm sạch.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Dấu ấn 8 thập kỷ ngành Nông nghiệp và Môi trường: Kế thừa và đổi mới vì phát triển xanh, bền vững

Dấu ấn 8 thập kỷ ngành Nông nghiệp và Môi trường: Kế thừa và đổi mới vì phát triển xanh, bền vững

80 năm trước, vào ngày 14/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký quyết nghị thành lập Bộ Canh nông, tiền thân của ngành Nông nghiệp và Môi trường hiện nay. Trải qua tám thập kỷ xây dựng và phát triển, ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam từng bước khẳng định vai trò nền tảng trong phát triển kinh tế, định hướng tới nông nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh.
Cà phê Việt Nam trước biến đổi khí hậu: Thách thức và giải pháp thích ứng

Cà phê Việt Nam trước biến đổi khí hậu: Thách thức và giải pháp thích ứng

Trước những diễn biến khó lường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã phối hợp cùng Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên triển khai chương trình “Canh tác cà phê thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu”.
Canh tác hữu cơ để phát triển nông nghiệp bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Canh tác hữu cơ để phát triển nông nghiệp bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Đại học Cần Thơ (ĐHCT) vừa tổ chức Hội thảo quốc tế “Nông nghiệp hữu cơ - Sản xuất bền vững (ISOP 2025)” từ ngày 4 đến 6/11, trong khuôn khổ Nghị định thư “Nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp khoa học, công nghệ và thị trường cho sản xuất lúa gạo hữu cơ ở Đồng bằng sông Cửu Long”, hợp tác giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức.
Chuẩn hóa khảo nghiệm DUS giống khoai tây - Bài 2: Nền tảng phát triển giống cây trồng Việt Nam

Chuẩn hóa khảo nghiệm DUS giống khoai tây - Bài 2: Nền tảng phát triển giống cây trồng Việt Nam

Khảo nghiệm DUS (tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định) là bước quan trọng trong đánh giá, bảo hộ và thương mại hóa giống cây trồng, đảm bảo giống có tính khác biệt, đồng nhất và ổn định qua các thế hệ.
Hoàn thiện mô hình quản lý và nhận diện thương hiệu “Mắc ca Lâm Đồng”

Hoàn thiện mô hình quản lý và nhận diện thương hiệu “Mắc ca Lâm Đồng”

Thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản địa phương, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng đang khẩn trương lấy ý kiến hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý, mô hình nhận diện thương hiệu và quy chuẩn sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng”. Đây là bước quan trọng nhằm khẳng định vị thế, chất lượng và giá trị đặc trưng của hạt mắc ca – sản phẩm tiềm năng của vùng đất cao nguyên trù phú.
Tìm giải pháp nâng cao giá trị chuỗi sản xuất ngành sắn

Tìm giải pháp nâng cao giá trị chuỗi sản xuất ngành sắn

Với mục tiêu đến năm 2030 kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam đạt 1,8-2,0 tỷ USD, hướng tới 2,5 tỷ USD vào năm 2050. Bên cạnh đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu nông nghiệp xanh, sinh thái và kinh tế tuần hoàn.
Hải Phòng: Đột phá nông nghiệp vụ đông bằng KHCN, hướng tới hiệu quả và bền vững

Hải Phòng: Đột phá nông nghiệp vụ đông bằng KHCN, hướng tới hiệu quả và bền vững

Nhằm tìm kiếm các giải pháp đột phá, hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây vụ Đông. Trung tâm Khuyến nông thành phố Hải Phòng đã tổ chức Tọa đàm “Giải pháp khoa học – công nghệ phát triển cây vụ đông hiệu quả, bền vững”.
Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Theo ông Đặng Huy Đông, Trưởng Ban Vận động thành lập Hiệp hội chuyển đổi xanh Việt Nam (VGA), niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh, chỉ có thể được xây dựng khi các chủ thể tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình minh bạch và cam kết phát triển bền vững.
Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Để bảo vệ và cải tạo đất các địa phương cần tái cơ cấu ngành lúa gạo (giảm diện tích lúa độc canh; phát triển mô hình xen canh, đa canh; tăng cường lúa chất lượng cao); áp dụng khoa học công nghệ và nông nghiệp thông minh (nông nghiệp thông minh, chính xác; phát triển giống lúa thích ứng; thúc đẩy một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp).
Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng lộ trình tiến tới ngừng nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất carbosulfan và benfuracarb (thuộc nhóm thuốc trừ sâu) tại Việt Nam.
Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ không chỉ là một phương thức canh tác mà còn là một hệ thống giá trị, trong đó sự công bằng đóng vai trò then chốt. Nguyên tắc về sự công bằng trong nông nghiệp hữu cơ vượt ra ngoài phạm vi kinh tế, bao gồm cả sự công bằng về xã hội, môi trường và đạo đức. Nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững, không chỉ mang lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng mà còn đảm bảo quyền lợi và phúc lợi cho tất cả các bên liên quan, bao gồm cả môi trường và các thế hệ tương lai.
Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng (Care), đôi khi còn được gọi là nguyên tắc phòng ngừa (Precautionary Principle), là một trong bốn nguyên tắc cốt lõi của nông nghiệp hữu cơ, bên cạnh các nguyên tắc về sức khỏe, sinh thái và công bằng.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính