Chủ nhật 21/12/2025 19:25Chủ nhật 21/12/2025 19:25 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Nông nghiệp hữu cơ: Thị trường, thách thức và giải pháp

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Gần đây chúng ta nói nhiều về nông nghiệp hữu cơ, được coi là một giải pháp tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, trong bối cảnh càng ngày chúng ta càng thấy nguy cơ hiện hữu của “canh tác hóa học”, khai thác đến suy kiệt đất đai, nguồn nước.

Đây là chủ trương đúng đắn, nhưng còn khá mới mẻ, vì lâu nay chúng ta tập trung làm nông nghiệp an toàn nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Vì vậy, hiểu đúng bản chất của nông nghiệp hữu cơ, những khác biệt so với nông nghiệp an toàn, khó khăn thách thức, nhận diện thị trường, xu hướng phát triển để có bước giải pháp phù hợp là cần thiết.

Sự khác biệt giữa nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp an toàn

Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ không chỉ tuyệt đối an toàn cho người mà còn chứa đựng nhiều giá trị nhân văn khác về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, công bằng cho mọi sinh vật sống trong hệ sinh thái, bền vững cho hôm nay và mai sau. Nông nghiệp hữu cơ có nhiều đặc thù, khác biệt so với nông nghiệp an toàn:

Mô hình nhóm rau hữu cơ Xóm Mòng - Lương Sơn - Hòa Bình được PGS Việt Nam chứng nhận

Một là, cơ sở phải trải qua giai đoạn chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ ít nhất 12 tháng đối với cây ngắn ngày, 18 tháng đối với cây dài ngày hoặc tối thiểu 6 tuần đối với gia cầm lấy trứng hoặc 12 tháng đối với trâu, bò… (dự thảo TCVN mới về nông nghiệp hữu cơ). Trong giai đoạn này, phải thực hiện đúng tiêu chuẩn nhưng sản phẩm lại chưa được coi là hữu cơ.

Hai là, không sử dụng thuốc trừ sâu bệnh, phân bón, thuốc trừ cỏ, chất bảo quản, chất phụ gia là hóa chất tổng hợp; thuốc kháng sinh, hoóc môn tăng trưởng; không sử dụng sản phẩm từ công nghệ biến đổi gen, công nghệ nano, xử lý chiếu xạ; chỉ dùng kháng sinh, thuốc thú y tổng hợp khi không còn cách nào khác và nếu sử dụng quá 1 lần cho vật nuôi có vòng đời dưới 1 năm thì sản phẩm đó không còn là hữu cơ…

Ba là, vật tư, công nghệ đầu vào trong sản xuất hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên và theo danh mục tại tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ; ưu tiên sử dụng nguồn hữu cơ tại chỗ (xác thực vật, phân động vật…) để duy trì độ phì của đất và cân bằng dinh dưỡng cho cây trồng.

Bốn là, quan tâm đến cuộc sống của các thành viên trong hệ sinh thái, như hệ vi sinh vật trong đất, loài thiên địch hay đảm bảo diện tích tối thiểu về đồng cỏ, nơi chăn thả, chuồng trại/đầu con; giảm đau đớn, căng thẳng cho con vật khi giết mổ…

Năm là, sản phẩm hữu cơ phải được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn của tổ chức chứng nhận (bên thứ 3) hoặc của PGS - hệ thống bảo đảm cùng tham gia, áp dụng cho hộ nông dân và bán trong nước (Brazil, Ấn Độ thừa nhận).

Do yêu cầu rất cao như trên, nên sản xuất hữu cơ là khuyến khích, khác với sản xuất an toàn là bắt buộc. Gần đây, trên công luận có nói đến "sản xuất sạch", "sản phẩm sạch", tuy nhiên không có văn bản pháp lý nào quy định về điều này. Theo tôi nên thống nhất có 2 nhóm gồm sản phẩm an toàn (có 2 cấp độ: phù hợp quy chuẩn hoặc phù hợp VietGAP - khuyến khích, vì vẫn dùng hóa chất tổng hợp) và sản phẩm hữu cơ để người tiêu dùng dễ phân biệt. Không nên gọi "sản xuất theo hướng hữu cơ" đối với sản phẩm mới đáp ứng một số tiêu chí hữu cơ, chưa được chứng nhận, đây vẫn coi là sản phẩm an toàn.

Thách thức của nông nghiệp hữu cơ

Cần khẳng định làm nông nghiệp hữu cơ không dễ dàng, nhiều khó khăn và thách thức:

Một là, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp hơn so với sản xuất an toàn, do không dùng phân bón hóa học, hoóc môn tăng trưởng, công nghệ gen, công nghệ na nô...

Hai là, đối mặt với dịch bệnh do không dùng thuốc bảo vệ thực vật; hạn chế tối đa dùng thuốc thú y, kháng sinh tổng hợp, trong khi cơ sở hữu cơ và không hữu cơ nằm liền kề, đan xen, mặc dù có vùng đệm nhưng nguy cơ lây truyền dịch bệnh là rất cao.

Ba là, sản xuất hữu cơ tốn nhiều công lao động hơn (thu gom xác thực vật, làm phân hữu cơ, làm cỏ, bẫy bả…),.

Bốn là, giá thành sản phẩm hữu cơ cao hơn đáng kể so với sản phẩm an toàn do năng suất thấp, chi phí cao (lao động thủ công, phí chứng nhận, diện tích chăn thả, chuồng trại/đầu con lớn hơn…) nên thị trường giới hạn là nhóm khách hàng có thu nhập cao.

Vì vậy, vấn đề an ninh lương thực cần được tính đến khi xác định quy mô, lộ trình phát triển nông nghiệp hữu cơ và chỉ sản xuất hữu cơ khi có thị trường, hiệu quả cao hơn.

Thị trường và xu thế của nông nghiệp hữu cơ

Cần khẳng định nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu, ngày càng phát triển bởi vì nông nghiệp hữu cơ là loại hình nông nghiệp bền vững nhất. Thế giới ngày càng văn minh, người tiêu dùng không chỉ đòi hỏi cho mình mà còn cho thế hệ mai sau. Nhóm người tiêu dùng đó đang tăng dần và đó là lý do vì sao thị trường nông sản hữu cơ thế giới đang tăng trưởng mạnh mẽ.

Theo Viện nghiên cứu Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (FiBL) tổng giá trị của thị trường hữu cơ thế giới tăng bình quân 10 - 15% mỗi năm, từ 15,5 tỷ USD (1999) lên 28,7 tỷ USD (2004), 54,9 tỷ USD (2009), 63 tỉ USD (2012) và 80 tỉ USD (2014). Năm 2015 riêng thị trường thực phẩm và đồ uống đạt trên 81,6 tỷ USD, lớn nhất là Mỹ (27,1 tỷ USD), Đức (7,9 tỷ USD) và Pháp (4,8 tỷ USD)…

Ở trong nước, thị trường sản phẩm hữu cơ mới hình thành vài năm nay và đang tăng trưởng. Một bộ phận người tiêu dùng trung lưu ở thành phố, có nhu cầu sản phẩm hữu cơ, chủ yếu vì muốn đảm bảo an toàn thực phẩm. Một số mô hình hiệu quả như Rau hữu cơ PGS Thanh Xuân – Hà Nội, Lương Sơn, Tân Lạc – Hòa Bình, Văn Trác – Hà Nam; Ecolink-Ecomart, Oganic Đà Lạt, Phú Viễn - Cà Mau; TH (1.000 con bò sữa), Vinamilk (500 con bò sữa); lợn Bảo Châu, Hoa Viên (Hà Nội); nước giải khát TH Herbals…

Giải pháp phát triển nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ nước ta đang ở giai đoạn ban đầu, để phát triển bền vững theo tôi nên triển khai các biện pháp sau:

Mô hình nhóm rau hữu cơ Thanh Thủy - Trác Văn - Duy Tiên - Hà Nam được PGS Việt Nam chứng nhận

Một là, xác định rõ khung pháp lý tại dự thảo Nghị định nông nghiệp hữu cơ. Sản xuất hữu cơ không bắt buộc nhưng do tính đặc thù, giá bán cao nên rất dễ bị lợi dụng, làm thị trường hữu cơ không minh bạch, vi phạm quyền người tiêu dùng. Vì vậy, sản xuất hữu cơ phải theo tiêu chuẩn được nhà nước chấp thuận, được chứng nhận phù hợp, có nhãn, lô gô minh bạch… Nhà nước cần ưu tiên cho cơ sở sản xuất hữu cơ được hưởng các chính sách đã ban hành và có chính sách đặc thù đối với hộ nông dân, hợp tác xã. Cần xử lý tình trạng “treo đầu dê, bán thịt chó”; bảo vệ người sản xuất hữu cơ chân chính, thị trường hữu cơ non trẻ.

Hai là, sớm ban hành TCVN mới về nông nghiệp hữu cơ (thay thế TCVN 1141:2015). Đây là quy định kỹ thuật rất quan trọng, tiếp cận, hài hòa tiêu chuẩn quốc tế, nhưng phải cụ thể, “Việt Nam hóa” để nông dân hiểu và áp dụng được. Việc rà soát, chỉnh sửa, đặc biệt là bổ sung vật tư đầu vào được phép sử dụng là rất cần thiết; cần đổi mới mà vẫn tuân thủ các nguyên tắc hữu cơ để năng suất hữu cơ cao hơn, chi phí thấp hơn.

Ba là, phát triển thị trường sản phẩm hữu cơ ở trong và ngoài nước. Thị trường không tự nhiên mà có nên rất cần vai trò của doanh nghiệp liên kết với nông dân, vai trò khâu nối của Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam. Nhà nước cần hỗ trợ phát triển thị trường, ví dụ hỗ trợ “bữa ăn hữu cơ” tại các trường học, nhà ăn công cộng, các điểm bán lẻ; đưa sản xuất hữu cơ vào chương trình giáo dục các cấp; hỗ trợ các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức của người tiêu dùng… như kinh nghiệm của các nước .

Bốn là, ưu tiên những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, sản phẩm đang có thị trường xuất khẩu lớn để từng bước chuyển một phần sang sản xuất hữu cơ. Bên cạnh thực phẩm hữu cơ (rau quả, gạo, tiêu, cà phê, chè, sữa, thịt, trứng, tôm, cá tra…) nên quan tâm đúng mức tới dược liệu, mỹ phẩm hữu cơ; không chỉ sản phẩm tươi, thô mà cần chế biến đa dạng để có giá trị cao hơn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.

Năm là, ưu tiên quy hoạch vùng có điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi cho đối tương cây trồng, vật nuôi sản xuất hữu cơ; lựa chọn loài cây trồng, vật nuôi và đầu tư nghiên cứu tạo giống mới thích ứng, chống chịu sâu bệnh, ngoại cảnh bất lợi tốt.

Sáu là, muốn có một ngành sản xuất hữu cơ lớn mạnh, cần khuyến khích sản xuất các vật tư đầu vào (hạt giống, con giống hữu cơ; phân bón hữu cơ, vi sinh vật có ích, thức ăn chăn nuôi, thủy sản hữu cơ, thuốc thảo mộc...).

Bảy là, nông nghiệp hữu cơ rất thân thiện với môi trường. Nhà nước nên chính thức chấp nhận sản xuất hữu cơ là hoạt động thân thiện với môi trường, sản phẩm hữu cơ có chứng nhận được gắn Nhãn xanh Việt Nam mà không cần thủ tục xét duyệt và được hưởng ưu đãi, hỗ trợ theo luật bảo vệ môi trường.

khuyennong.lamdong.gov.vn

Bài liên quan

Bài 3: Nông nghiệp hữu cơ ở Nghệ An: Khi ý chí vượt khó khăn

Bài 3: Nông nghiệp hữu cơ ở Nghệ An: Khi ý chí vượt khó khăn

Mặc dù còn nhiều “điểm nghẽn” cần gỡ…nhưng việc phát triển nông nghiệp hữu cơ không còn là lựa chọn mang tính thử nghiệm, mà đã trở thành một giải pháp chiến lược nhằm xây dựng nền nông nghiệp tỉnh Nghệ An bền vững, an toàn và có giá trị gia tăng cao, đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh - sạch
Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Khơi dậy tiềm năng xanh từ chính sách

Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Khơi dậy tiềm năng xanh từ chính sách

Nông nghiệp hữu cơ đang dần trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy này. Với những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ, đặc biệt là Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về Nông nghiệp hữu cơ và Quyết định số 885/QĐ-TTg, cùng với sự vào cuộc của các địa phương, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được kỳ vọng sẽ phát triển vượt bậc trong giai đoạn 2025-2030, góp phần xây dựng nền nông nghiệp xanh, bền vững và hiện đại.
Đồng Tháp: Thành công bước đầu trên hành trình nông nghiệp hữu cơ

Đồng Tháp: Thành công bước đầu trên hành trình nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ đang mang lại lợi ích kinh tế và môi trường cho Đồng Tháp, thể hiện qua các mô hình sản xuất thành công và tiềm năng phát triển lâu dài.
Khánh Hòa: Hướng tới nông nghiệp hữu cơ, nâng tầm giá trị

Khánh Hòa: Hướng tới nông nghiệp hữu cơ, nâng tầm giá trị

Nông nghiệp hữu cơ đang trở thành hướng đi tất yếu tại tỉnh Khánh Hòa, đặc biệt ở các huyện miền núi, mang lại lợi ích về sức khỏe, môi trường và kinh tế, mở ra tương lai tươi sáng cho nông nghiệp.
Công nghệ Hàn Quốc đổ bộ vào thị trường thiết bị nông nghiệp Việt Nam

Công nghệ Hàn Quốc đổ bộ vào thị trường thiết bị nông nghiệp Việt Nam

Hàn Quốc đang đẩy mạnh xuất khẩu thiết bị nông nghiệp sang Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi sang nông nghiệp hữu cơ.
Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Làn gió mới cho bữa ăn sạch

Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Làn gió mới cho bữa ăn sạch

Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với gần 500.000 ha sản xuất, đáp ứng nhu cầu sản phẩm sạch.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Nâng cao năng lực chứng nhận, nhận diện sản phẩm hữu cơ cho doanh nghiệp và hợp tác xã

Nâng cao năng lực chứng nhận, nhận diện sản phẩm hữu cơ cho doanh nghiệp và hợp tác xã

Nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững, sáng 18/12, tại TP. Hồ Chí Minh, Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam tổ chức chương trình tập huấn “Nông nghiệp hữu cơ - Chứng nhận và nhận diện khai thác sản phẩm” cho các doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh sản phẩm hữu cơ.
Các xu thế chủ đạo trong phát triển nông nghiệp hữu cơ

Các xu thế chủ đạo trong phát triển nông nghiệp hữu cơ

Trước sự phục hồi mạnh mẽ nhưng cũng song hành với nhiều thách thức mới, các xu thế chủ đạo trong phát triển nông nghiệp hữu cơ đang nổi lên và từng bước định hình tương lai của nông nghiệp hữu cơ toàn cầu. Việc nhận diện đúng những xu thế này không chỉ giúp dự báo quỹ đạo phát triển của ngành mà còn định hướng chiến lược cho các quốc gia và doanh nghiệp trước một thị trường cạnh tranh và biến động hơn bao giờ hết.
Quy trình trang trại ứng dụng nông nghiệp thông minh: Từ dữ liệu đến năng suất

Quy trình trang trại ứng dụng nông nghiệp thông minh: Từ dữ liệu đến năng suất

Một trang trại ứng dụng nông nghiệp thông minh không chỉ đơn thuần là một nơi trồng trọt và chăn nuôi. Đó là một hệ sinh thái phức tạp, nơi công nghệ tiên tiến được lồng ghép vào mọi khâu sản xuất, tạo ra một quy trình vận hành hiệu quả, tự động hóa và bền vững. Toàn bộ quy trình diễn ra tại trang trại này được xây dựng trên nền tảng của dữ liệu, biến những công việc truyền thống trở nên chính xác, khoa học và năng suất hơn bao giờ hết.
Lợi ích vượt trội của nông nghiệp thông minh: "Chìa khóa" cho sự phát triển bền vững

Lợi ích vượt trội của nông nghiệp thông minh: "Chìa khóa" cho sự phát triển bền vững

Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, dân số tăng nhanh và nguồn tài nguyên cạn kiệt, ngành nông nghiệp đang phải tìm kiếm những giải pháp đột phá để tồn tại và phát triển.
Nghệ An tạo động lực phát triển nông nghiệp hữu cơ toàn diện

Nghệ An tạo động lực phát triển nông nghiệp hữu cơ toàn diện

Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn Nghệ An giai đoạn 2022 – 2030 đang dần bắt theo nhịp theo xu thế tất yếu, hướng đến nền sản xuất nông nghiệp xanh, góp phần giảm thiểu phát thải khí nhà kính và ứng phó biến đổi khí hậu.
Phục hồi vườn cây ăn trái ĐBSCL sau ngập úng: Giải pháp khoa học cho bà con nhà vườn

Phục hồi vườn cây ăn trái ĐBSCL sau ngập úng: Giải pháp khoa học cho bà con nhà vườn

Mùa nước nổi năm 2025 đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều vùng chuyên canh cây ăn trái tại Đồng bằng sông Cửu Long. Nước lũ rút chậm, bùn non bồi lắng, rễ cây bị thiếu oxy trong thời gian dài khiến hàng loạt vườn cây rơi vào tình trạng suy kiệt. Theo các chuyên gia nông nghiệp, việc phục hồi vườn cây sau ngập cần được thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, tránh tâm lý nóng vội dễ gây chết cây hàng loạt.
Phát triển nông nghiệp thông minh từ góc nhìn hiện thực

Phát triển nông nghiệp thông minh từ góc nhìn hiện thực

Nông nghiệp thông minh tích hợp công nghệ (IoT, AI, dữ liệu lớn) vào sản xuất nông nghiệp. Mục tiêu tối ưu hóa tài nguyên, tăng năng suất, giảm thiểu tác động môi trường và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Giải pháp ứng dụng công nghệ cao cho sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu

Giải pháp ứng dụng công nghệ cao cho sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu

Theo các chuyên gia, ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước, tuy nhiên quá trình sản xuất chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), hạn hán, xâm nhập mặn… Phát triển sản xuất bền vững, ứng dụng công nghệ cao thích ứng BĐKH là giải pháp cần triển khai thực hiện trong thời gian tới, vừa góp phần nâng cao giá trị lúa gạo, vừa giúp nông dân duy trì và tăng sản lượng, tăng lợi nhuận trong sản xuất...
Tiêu chuẩn, thương hiệu và niềm tin: Ba phép thử lớn với nông nghiệp hữu cơ Việt Nam

Tiêu chuẩn, thương hiệu và niềm tin: Ba phép thử lớn với nông nghiệp hữu cơ Việt Nam

Từ những mô hình sản xuất cụ thể của hội viên Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam đến góc nhìn của các hệ thống bán lẻ, nhập khẩu và phân phối, trong buổi chiều ngày 12/12, phiên chia sẻ của hội viên về hành trình làm nông nghiệp hữu cơ và thảo luận “Giải pháp thúc đẩy thương mại cho thị trường hữu cơ” cho thấy ba thách thức với nông nghiệp hữu cơ Việt Nam hiện nay: chuẩn mực chứng nhận, xây dựng thương hiệu và củng cố niềm tin với thị trường.
Tưới thông minh - Giải pháp xanh cho vùng hạn mặn Vĩnh Long

Tưới thông minh - Giải pháp xanh cho vùng hạn mặn Vĩnh Long

Nhóm tác giả đến từ các trường đại học và viện nghiên cứu tại TP. Hồ Chí Minh đã phát triển thành công mô hình tưới tự động tiết kiệm nước cho sản xuất rau hữu cơ tại xã Ba Tri (tỉnh Bến Tre trước đây), tỉnh Vĩnh Long, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đ
Hội nghị kết nối hội viên VOAA: Giới thiệu tiêu chuẩn VOAA được IFOAM công nhận

Hội nghị kết nối hội viên VOAA: Giới thiệu tiêu chuẩn VOAA được IFOAM công nhận

TSKH. Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam (VOAA), nhấn mạnh hội nghị là dịp quan trọng nhất trong năm để hội viên từ mọi miền đất nước gặp gỡ, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và đối thoại hai chiều với Ban Chấp hành (BCH) về trách nhiệm của Hiệp hội và của từng hội viên trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. Chủ tịch VOAA bày tỏ mong muốn lắng nghe ý kiến từ đội ngũ nhà khoa học, doanh nghiệp đến nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhằm tháo gỡ những vướng mắc tồn tại và xây dựng giải pháp hiệu quả hơn cho giai đoạn tới.
Thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam

Thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam

Yếu tố “xanh” lần đầu tiên được đề cập trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, theo đó Việt Nam xác định việc chuyển đổi phương thức tiêu dùng theo hướng bền vững nhằm bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính