![]() |
| Hợp tác xã sâm Núi Dành Đức Hạnh đã chủ động mời các nhà khoa học trong tỉnh và trung ương đến khảo sát và tư vấn trong quá trình sản xuất và chế biến sâm |
Xác định tầm quan trọng của loại cây này trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương, Tân Yên đã xây dựng Đề án “Phát triển sâm nam núi Dành giai đoạn 2022-2027”. Nhờ đó, đến nay toàn huyện có khoảng 150ha, tập trung ở các xã Liên Chung, Việt Lập và Cao Thượng. Năm 2024, gần 20ha sâm nam núi Dành cho thu hoạch củ với sản lượng 30 tấn và hơn 100 ha cho thu hoạch hoa, sản lượng bình quân khoảng 1 tấn hoa tươi/ha. Năm 2023, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (cũ) đã công nhận Điểm du lịch tâm linh sinh thái núi Dành thuộc thôn Hậu, xã Liên Chung. Khu du lịch tâm linh sinh thái Núi Dành đã được định hình và ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng và người dân.
Hợp tác xã Sâm núi Dành Đức Hạnh, cho biết, việc sản xuất, trồng và chế biến sâm nam núi Dành tại Hợp tác xã canh tác theo quy trình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhờ sự hợp tác chặt chẽ với Viện nghiên cứu, đào tạo và tư vấn khoa học công nghệ (ITC) Hà Nội. Trong đó, có hơn 3 ha sản xuất sâm nam núi Dành theo tiêu chuẩn hữu cơ, sử dụng các chế phẩm sinh học, không dùng thuốc bảo vệ thực vật là hướng đi bền vững. Tuy nhiên các cơ quan hữu quan cần đẩy mạnh các hoạt động sau để cây sâm nam thực sự có tên trong bản đồ dược liệu Việt Nam, khu vực và thế giới.
Nghiên cứu khoa học và công nghệ. Đây là nền tảng cốt lõi để xác định và nâng cao giá trị của sâm núi Dành. Nghiên cứu, đánh giá dược tính: Các cơ quan khoa học như Viện Dược liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cần tiến hành các nghiên cứu chuyên sâu để phân tích thành phần hóa học, xác định hoạt chất chính và đánh giá tác dụng dược lý của sâm núi Dành một cách khoa học. Kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở vững chắc để chứng minh giá trị của sâm, tránh việc quảng bá thiếu căn cứ.
Hoàn thiện quy trình nhân giống và canh tác: Các cơ quan nông nghiệp và khoa học công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Khoa học và Công nghệ) cần đầu tư vào việc nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ tiên tiến như nuôi cấy mô và nhân giống vô tính để sản xuất ra nguồn giống sạch bệnh, đồng đều về chất lượng. Bên cạnh đó, cần xây dựng một quy trình canh tác chuẩn GACP-WHO (Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc) để đảm bảo chất lượng, an toàn và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Nghiên cứu chế biến sâu: Sâm tươi có thời gian bảo quản ngắn và giá trị thấp hơn. Do đó, cần có các nghiên cứu về công nghệ chế biến sâu như chiết xuất, cô đặc, sản xuất viên nang, trà, rượu sâm... để tạo ra các sản phẩm đa dạng, có giá trị kinh tế cao và dễ bảo quản, vận chuyển. Một loại dược liệu quý cần được quản lý chặt chẽ để đảm bảo chất lượng và uy tín trên thị trường.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý và thương hiệu: Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cần phối hợp với chính quyền địa phương để hoàn thiện hồ sơ và cấp chỉ dẫn địa lý cho sâm núi Dành. Việc này sẽ giúp bảo vệ thương hiệu, tránh hàng giả, hàng nhái và khẳng định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm.
Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng: Các cơ quan quản lý (Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp) cần xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn chất lượng cụ thể cho sâm núi Dành, từ tiêu chuẩn về giống, quy trình canh tác, đến tiêu chuẩn về sản phẩm cuối cùng. Tiêu chuẩn này sẽ là thước đo để các đơn vị sản xuất tuân thủ và người tiêu dùng tin tưởng.
Quản lý vùng trồng tập trung: Chính quyền địa phương cần quy hoạch và quản lý các vùng trồng sâm tập trung, đảm bảo các điều kiện về thổ nhưỡng, khí hậu và nguồn nước. Việc quản lý này cũng bao gồm việc kiểm soát việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật theo hướng hữu cơ, bền vững.
![]() |
| Cây sâm 55 năm tuổi hiện đang được bảo tồn tại khu vườn trồng sâm của HTX Đức Hạnh |
Để sâm núi Dành vươn ra thị trường lớn, cần có sự hỗ trợ về mặt chính sách và tài chính. Chính phủ và các bộ ngành liên quan (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính) cần có các chính sách ưu đãi về vốn, thuế cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư vào lĩnh vực trồng và chế biến sâm núi Dành. Đồng thời, cần có các chương trình tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho người dân để họ nắm vững quy trình sản xuất.
Xúc tiến thương mại: Các cơ quan xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương, các trung tâm xúc tiến thương mại địa phương) cần hỗ trợ quảng bá sản phẩm sâm núi Dành trên các kênh truyền thông, tổ chức các hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước. Đặc biệt, cần tìm kiếm và kết nối với các đối tác, doanh nghiệp dược phẩm lớn để đưa sản phẩm vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Phát triển du lịch sinh thái: Kết hợp mô hình trồng sâm với du lịch sinh thái là một hướng đi tiềm năng. Các cơ quan quản lý du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có thể hỗ trợ xây dựng các tour du lịch trải nghiệm, giúp du khách tham quan vùng trồng sâm, tìm hiểu về quy trình sản xuất và mua sắm sản phẩm. Điều này không chỉ giúp quảng bá sản phẩm mà còn tạo ra một nguồn thu nhập phụ cho người dân địa phương.
Liên kết "bốn nhà": Mô hình liên kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông cần được củng cố và phát triển. Nhà nước ban hành chính sách và quản lý; nhà khoa học cung cấp giải pháp công nghệ; nhà doanh nghiệp đầu tư, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; còn nhà nông trực tiếp sản xuất. Sự liên kết chặt chẽ này sẽ tạo ra một chuỗi giá trị bền vững, đảm bảo lợi ích cho tất cả các bên.
Hợp tác quốc tế: Việc hợp tác với các tổ chức và chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực dược liệu sẽ giúp học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận công nghệ mới và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các cơ quan quản lý nên tạo điều kiện cho các dự án hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với nước ngoài.
Những việc trên doanh nghiệp, Hợp tác xã và người nông dân không thể tự làm bởi nó liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, khung tiêu chuẩn dược liệu thế giới... tất cả đều cần được nghiên cứu một cách bài bản từ đó mới xác định được hướng đi rõ ràng. Khi các nhà nghiên cứu khẳng định hàm lượng các chất có lợi cho sức khoẻ con người của sâm nam núi Dành không thua kém sâm Hàn Quốc thì việc vào cuộc của cả hệ thống chính trị để phát triển loại sản phẩm này là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết.
Để sâm núi Dành thực sự trở thành một loại dược liệu quý, việc hành động phải có sự đồng lòng, phối hợp từ nhiều cấp, nhiều ngành. Từ những nghiên cứu khoa học chuyên sâu đến việc chế biến, xây dựng thương hiệu uy tín, từ chính sách hỗ trợ đến việc xúc tiến thương mại, mỗi bước đi đều cần được thực hiện một cách bài bản và có chiến lược. Chỉ khi đó, loại "sâm tiến vua" này mới có thể vươn tầm, không chỉ là niềm tự hào của Bắc Ninh mà còn là một thương hiệu dược liệu quốc gia./.