Phát biểu chỉ đạo tại Lễ kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải “tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, coi đây là định hướng chiến lược trong giai đoạn phát triển mới. Theo đó, ngành nông nghiệp cần chuyển mạnh từ phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu, từ tăng sản lượng sang nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, đồng thời đẩy mạnh xây dựng thương hiệu, phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao và gắn sản xuất với chế biến sâu. Tư tưởng chỉ đạo này không chỉ khẳng định quyết tâm đổi mới mô hình tăng trưởng nông nghiệp mà còn mở ra con đường để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, hướng tới nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và bền vững. |
Phát triển vùng nguyên liệu nông, lâm, thủy sản đạt chuẩn, quy mô tập trung và gắn kết bền vững với doanh nghiệp chế biến, ... |
Tái cơ cấu nông nghiệp - chuyển từ “lượng” sang “chất”
Trong hơn một thập kỷ qua, chương trình tái cơ cấu ngành trồng trọt đã làm thay đổi căn bản diện mạo nông nghiệp Việt Nam. Từ những cánh đồng lúa năng suất thấp, nông dân được khuyến khích chuyển sang cây trồng có giá trị kinh tế cao, phù hợp thổ nhưỡng và nhu cầu thị trường. Đây là bước ngoặt đưa nông nghiệp từ chú trọng sản lượng sang tập trung vào giá trị.
Quá trình tái cơ cấu cây trồng đã tạo ra sự chuyển mình mạnh mẽ, đặt nền móng vững chắc cho việc hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, chuyên canh trên cả nước. Cụ thể, ở miền Bắc trung du và miền núi, hàng chục nghìn hecta lúa năng suất thấp đã được thay thế bằng các loại cây ăn quả giá trị cao như vải, nhãn, cam, bưởi, chuối, giúp nông dân nâng cao thu nhập; tại Đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2013 – 2020 chứng kiến hơn 478.000 hecta đất lúa chuyển sang trồng các loại cây ăn trái như xoài, mít, sầu riêng, dừa, không chỉ tạo thêm hàng trăm nghìn việc làm mà còn nâng giá trị kinh tế gấp 2–3 lần; đồng thời, Tây Nguyên vươn lên thành trung tâm cà phê và hồ tiêu của thế giới, còn miền Trung khẳng định vị thế với những cây đặc sản như thanh long, dứa và chanh leo.
Song song với chuyển đổi diện tích, chính sách đất đai linh hoạt và định hướng phát triển bền vững đã thay đổi tư duy nông nghiệp: từ “trồng nhiều” sang “trồng có thương hiệu”. Quyết định 174/QĐ-TTg năm 2021 đặt mục tiêu phát triển trồng trọt hiện đại, gắn sản phẩm đặc trưng với thương hiệu quốc gia.
Sự chuyển đổi này đã mang lại thành tựu rõ rệt: hệ thống mã số vùng trồng xuất khẩu - linh hồn của vùng nguyên liệu đạt chuẩn - hiện đạt hơn 7.000 mã, gấp ba lần năm 2018. Các mô hình liên kết nông dân - doanh nghiệp - nhà khoa học đã hình thành chuỗi giá trị bền vững, điển hình là cà phê Đắk Lắk có truy xuất nguồn gốc và chứng chỉ carbon, xoài, chuối Đồng Tháp được chế biến, xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc. Chính sự gắn kết và chuẩn hóa quy trình này đã giúp giá trị sản xuất trồng trọt năm 2024 tăng 35% so với 2013, đưa Việt Nam vào top 10 quốc gia xuất khẩu rau quả lớn nhất thế giới, đồng thời góp phần định hình lại kinh tế nông thôn theo hướng thích ứng biến đổi khí hậu và đa dạng sinh kế. Tái cơ cấu chính là bước đi căn bản nhất để kiến tạo các vùng nguyên liệu chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh toàn cầu.
Ngoài ra, tái cơ cấu còn góp phần định hình lại kinh tế nông thôn: ruộng lúa kém hiệu quả chuyển sang hoa, rau màu, cây dược liệu; mô hình cây ăn quả kết hợp du lịch sinh thái ở miền núi phía Bắc; hay kết hợp trồng trọt - thủy sản ở ĐBSCL để thích ứng biến đổi khí hậu.
Tiến trình hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là chiến lược xuyên suốt, có tính lịch sử, luôn gắn liền với sự phát triển của đất nước. Ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, thể hiện mong muốn "thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Tư tưởng "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại" đó đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo, gắn cách mạng nước ta với trào lưu tiến bộ chung. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng xác định hội nhập quốc tế là hình thức, trình độ phát triển cao của hợp tác quốc tế, nhằm "đặt đất nước vào dòng chảy chính của thời đại," tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế quốc gia.
Tư duy hội nhập của Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển từ có giới hạn, có chọn lọc, đến hội nhập sâu rộng, toàn diện. Hội nhập kinh tế quốc tế được xác định là trọng tâm ban đầu, được đề ra lần đầu tại Đại hội Đảng lần thứ IX. Đến Đại hội XI, tư duy chuyển sang "hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực." Sự ra đời của Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 là "quyết sách đột phá," đánh dấu bước ngoặt quan trọng: hội nhập được định vị là động lực quan trọng đưa đất nước vào kỷ nguyên mới, chuyển từ tiếp nhận sang đóng góp, từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ, và từ vị thế đi sau sang trạng thái vươn lên, tiên phong.
![]() |
| Việt Nam xuất khẩu gạo hữu cơ sang thị trường châu Âu. |
Trong 40 năm đổi mới, tiến trình hội nhập quốc tế đã đạt những kết quả mang tầm vóc lịch sử, thay đổi căn bản thế và lực của đất nước. Về đối ngoại, từ một quốc gia bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 34 nước. Về kinh tế, Việt Nam đã trở thành một trong 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới, quy mô kinh tế tăng gần 100 lần so với năm 1986, và thu nhập bình quân đầu người tăng lên gần 5.000 USD.
Thành công của hội nhập kinh tế thể hiện rõ qua việc tham gia 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA), gắn kết Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế chủ chốt. Điều này đã đưa Việt Nam lọt vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, đồng thời nằm trong nhóm 20 nền kinh tế thu hút nhiều vốn FDI nhất thế giới từ năm 2019. Những thành quả này góp phần tích lũy thế và lực, là cơ sở cho sự bứt phá tiếp theo.
Đứng trước thời điểm lịch sử và bối cảnh thế giới đa cực, đa trung tâm, Đảng xác định hội nhập quốc tế phải là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, nhằm đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Nghị quyết 59 định hướng một cuộc cách mạng trong hành động theo nguyên tắc: Nội lực có vai trò quyết định, kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể, động lực; và hội nhập phải mang tính chất "đồng bộ, toàn diện, sâu rộng," vừa hợp tác vừa đấu tranh.
Theo định hướng này, Hội nhập kinh tế vẫn là trung tâm, ưu tiên cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số. Việt Nam sẽ tập trung tận dụng hiệu quả các FTA thế hệ mới, thu hút FDI chất lượng cao (nhất là trong các lĩnh vực mới nổi như chip bán dẫn, AI), và hoàn thiện thể chế liên quan đến kinh tế xanh, kinh tế số, giảm phát thải các-bon. Các lĩnh vực khác như chính trị, an ninh, quốc phòng, khoa học - công nghệ, văn hóa, giáo dục đều phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế, hướng tới mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam của "thế hệ vươn mình."
Vùng nguyên liệu đạt chuẩn - động lực hội nhập quốc tế sâu rộng
![]() |
| Mô hình bưởi được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn hữu cơ. |
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, vùng nguyên liệu đạt chuẩn không chỉ là yêu cầu nội tại mà còn là “tấm hộ chiếu” để nông sản Việt Nam thâm nhập và đứng vững tại các thị trường khó tính. Vùng nguyên liệu được tổ chức tốt là cơ sở để đảm bảo nguồn cung ổn định, có chất lượng đồng đều, và là nền tảng duy nhất để thực hiện hiệu quả việc truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm theo yêu cầu của các thị trường xuất khẩu. Nếu không có vùng nguyên liệu đạt chuẩn, việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế như Hữu cơ, GlobalGAP hay các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội (ESG) là điều bất khả thi, dẫn đến việc nông sản dễ dàng bị chặn lại bởi các rào cản phi thuế quan (SPS/TBT).
Để đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chỉ đạo xây dựng “Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022 - 2025” nhằm thí điểm phát triển 05 vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; thí điểm cơ chế, cách làm trên địa bàn 13 tỉnh trải dài từ Bắc vào Nam với các sản phẩm chủ lực như: cây ăn quả, lúa gạo, cà phê, gỗ lớn rừng trồng giai đoạn 2022-2025, qua đó tổng kết rút kinh nghiệm và nhân rộng những mô hình hiệu quả ra cả nước là rất cần thiết. Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng vừa ban hành Kế hoạch đẩy nhanh tiến độ thực hiện và đánh giá kết quả Đề án thí điểm giai đoạn 2022 - 2025, đồng thời đề xuất nhân rộng và xây dựng Đề án cho giai đoạn 2026 - 2030.
Quan điểm và mục tiêu xây dựng Đề án
Xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và tiêu thụ phải gắn liền với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái. Việc này đồng thời thúc đẩy công tác chế biến, bảo quản, tiêu thụ và xây dựng thương hiệu các sản phẩm nông, lâm, thủy sản.
Vùng nguyên liệu cần phát triển trên cơ sở nhu cầu thực tế của thị trường và điều kiện tự nhiên đặc thù của từng vùng. Các vùng sản xuất phải được gắn kết chặt chẽ với công nghiệp bảo quản, chế biến và thị trường tiêu thụ, hình thành các vùng chuyên canh tập trung, đồng thời ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ sinh học, nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, thông minh và kinh tế tuần hoàn trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp.
Phát triển vùng nguyên liệu phải kết hợp với tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, bảo quản, chế biến nhằm tối đa hóa giá trị gia tăng, nâng cao thu nhập cho người dân, đồng thời góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Nhà nước và các doanh nghiệp cần đầu tư nâng cấp hạ tầng, trang thiết bị phục vụ sản xuất, kinh doanh, chế biến và vận chuyển nông sản. Đồng thời, các hợp tác xã trong vùng nguyên liệu phải được hỗ trợ để tham gia hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, mở rộng liên kết và hợp tác với doanh nghiệp, từ đó nâng cao năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận khoa học - công nghệ.
Nhà nước khuyến khích liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp để hình thành các chuỗi giá trị nông sản, mở rộng thị trường tiêu thụ, xây dựng liên doanh, liên kết làm đầu mối cung cấp nông sản trong nước và hướng tới xuất khẩu, đồng thời tạo nền tảng phát triển bền vững.
![]() |
| Vùng nguyên liệu cần phát triển trên cơ sở nhu cầu thực tế của thị trường và điều kiện tự nhiên đặc thù của từng vùng. (Ảnh minh họa) |
Việc xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và tiêu thụ phải đồng bộ với cơ chế chính sách, huy động được mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo sản xuất hiệu quả, bền vững và an toàn môi trường sinh thái.
Về mục tiêu chung, Bộ hướng tới hình thành 05 vùng sản xuất nguyên liệu nông, lâm nghiệp quy mô hàng hóa tập trung, hiện đại, ứng dụng công nghệ tiên tiến, trên cơ sở liên kết bền vững giữa các hợp tác xã nông nghiệp và doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ. Mục tiêu của việc này là thúc đẩy quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp một cách nhanh chóng, hiệu quả và bền vững, đồng thời góp phần xây dựng nông thôn mới. Các hợp tác xã nông nghiệp sẽ được phát triển và nâng cao vai trò trong chuỗi giá trị nông sản, nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm giá thành nguyên liệu đầu vào phục vụ chế biến và tiêu thụ. Hoạt động này sẽ giúp tăng thu nhập và cải thiện đời sống của người dân địa phương.
Mục tiêu của Đề án được chia làm 2 mục tiêu cụ thể tương ứng với 2 giai đoạn là 2022-2023 và 2024-2025. Trong giai đoạn 2022-2023, mục tiêu là hình thành được 05 vùng nguyên liệu đạt chuẩn, có quy mô tập trung với tổng diện tích khoảng 166.800 ha, bao gồm: cây ăn quả vùng miền núi phía Bắc (14.000 ha), gỗ rừng trồng chứng chỉ bền vững tại vùng Duyên hải miền Trung (22.900 ha), cà phê Tây Nguyên (19.700 ha), lúa gạo vùng Tứ Giác Long Xuyên (50.000 ha) và cây ăn quả vùng Đồng Tháp Mười (60.200 ha). Cùng với đó, các chuỗi liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân sẽ được hình thành, nhằm giảm chi phí đầu vào sản xuất từ 5–10%, giảm tổn thất sau thu hoạch 5–10%, đồng thời tăng giá trị nông sản 10–20% và nâng thu nhập của nông dân từ 5–10%. Ngoài ra, dự án hướng tới nâng cao năng lực cho ít nhất 250 hợp tác xã nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng vùng nguyên liệu với hệ thống giao thông, thủy lợi, kho lạnh, nhà sơ chế và bảo quản nông sản, cũng như trang thiết bị phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, việc số hóa dữ liệu vùng nguyên liệu, áp dụng phần mềm quản lý, thí điểm các chính sách tín dụng ưu đãi và bảo hiểm nông nghiệp cũng được triển khai nhằm tăng hiệu quả quản lý, sản xuất và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Trong giai đoạn tiếp theo (2024-2025), mục tiêu là mở rộng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng chế biến, bảo quản, logistics phục vụ chuỗi giá trị nông sản thông qua việc xây dựng 05 trung tâm logistic hỗ trợ hợp tác xã. Cụ thể, gồm Trung tâm logistic chuỗi lúa gạo tại huyện Thoại Sơn (tỉnh An Giang), Trung tâm logistic lúa–tôm hữu cơ tại huyện An Minh (tỉnh Kiên Giang), Trung tâm logistic chế biến tôm tại huyện Cù Lao Dung (tỉnh Sóc Trăng), Trung tâm logistic trái cây Mỹ Hiệp (tỉnh Đồng Tháp) và Trung tâm logistic chuỗi cà phê tại tỉnh Gia Lai. Các trung tâm này sẽ đóng vai trò đầu mối trong sơ chế, chế biến, bảo quản và phân phối sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ và thúc đẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp./.
Trước diễn biến phức tạp và khó lường của biến đổi khí hậu, sản xuất giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt trở thành ... |
Trong hơn một thập kỷ qua, giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp - đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt đã được ... |
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp, giảm phát thải trong lĩnh vực trồng ... |