![]() |
Đến năm 2030, ngành trồng trọt giảm ít nhất 15% tổng phát thải khí nhà kính. (Ảnh minh họa) |
Nhằm triển khai thực hiện các hoạt động tuyên truyền, truyền thông cho Đề án sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến 2050 (Đề án) được phê duyệt tại Quyết định số 4024/QĐ-BNNMT ngày 29/9/2021 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường được đồng bộ, kịp thời, thống nhất và hiệu quả, Tạp chí điện tử Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam triển khai thực hiện tuyến bài "Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt" với mục tiêu triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi hệ thống sản xuất trồng trọt theo hướng phát thải thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện sinh kế cho người dân và phát triển bền vững. Qua đó giúp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành hàng trồng trọt, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, từng bước hình thành nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, có khả 2 năng chống chịu tốt trước tác động của biến đổi khí hậu, góp phần thực hiện các cam kết Việt Nam trong NDC (Đóng góp do quốc gia tự quyết định). |
Thực trạng
Theo số liệu kiểm kê khí nhà kính quốc gia năm 2020, tổng phát thải của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ), tăng gần gấp đôi so với năm 2010. Trong đó lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 116,51 triệu tấn CO2tđ riêng trồng trọt (canh tác lúa và một số loại cây trồng chủ lực, đốt phế phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng) chiếm khoảng 80% tổng phát thải của ngành nông nghiệp.
Cụ thể, nguồn phát thải chính trong trồng trọt (canh tác lúa nước, đất nông nghiệp và đốt phế phụ phẩm ngoài đồng) đến từ: ruộng lúa ngập nước và vùi rơm rạ không qua xử lý (CH4): chiếm khoảng 56,9% phát thải trong trồng trọt; phân bón vô cơ (N20 từ đất): phát sinh từ bón thừa phân đạm, thiếu kiểm soát; đốt rơm rạ, phụ phẩm sau thu hoạch: gây phát thải CO2 và các khí độc hại khác; nguồn khác: trong quá trình xử lý bao bì vật tư nông nghiệp sau sử dụng, công nghiệp khai thác và sản xuất nhiên liệu (được sử dụng trong quá trình sản xuất trồng trọt).
Hiện nay, bên cạnh lúa gạo, nhiều nhóm cây trồng khác như ngô, sắn, đậu tương, rau màu, cây ăn quả có tiềm năng áp dụng các giải pháp canh tác giảm phát thải nhằm giảm sử dụng phân bón, tăng hấp thụ các-bon, cải thiện sức khỏe đất, tiết kiệm tài nguyên và hướng tới sản xuất bền vững. Tuy nhiên, các hoạt động canh tác giảm phát thải chủ yếu mới chỉ được thực hiện dưới dạng mô hình, dự án đơn lẻ, chưa có chương trình cấp quốc gia định hướng và hỗ trợ tổng thể.
Trong khi đó, các thị trường tiêu thụ nông sản lớn trên thế giới đang có xu hướng siết chặt các yêu cầu liên quan đến phát thải các-bon, chứng nhận bền vững, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường. Việc chậm triển khai các chương trình sản xuất giảm phát thải có thể khiến nông sản Việt Nam gặp khó khăn trong xuất khẩu, giảm khả năng cạnh tranh, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng và thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Bên cạnh đó, triển khai canh tác trồng trọt theo hướng giảm phát thải không chỉ là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu, mà còn mang lại nhiều lợi ích thiết thực và toàn diện cho nông dân, doanh nghiệp và quốc gia. Việc áp dụng các quy trình canh tác giảm phát thải - như tưới ngập khô xen kẽ (AWD), quản lý dinh dưỡng tông hợp, canh tác hữu cơ, nông nghiệp chính xác và nông nghiệp thông minh với khí hậu - giúp giảm đáng kể lượng vật tư nông nghiệp đầu vào như phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật và nước tưới, từ đó làm giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho người nông dân. Đồng thời, các biện pháp này góp phần cải thiện sức khỏe của đất, bảo vệ đa dạng sinh học, giảm ô nhiễm môi trường và nâng cao chất lượng nông sản.
Về lâu dài, sản xuất nông nghiệp theo hướng giảm phát thải chính là con đường xây dựng hình ảnh một nền nông nghiệp Việt Nam có trách nhiệm với môi trường, có trình độ canh tác cao và đủ năng lực hội nhập sâu vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu. Đây cũng là cơ sở quan trọng để Việt Nam từng bước tiếp cận và tham gia hiệu quả vào thị trường tín chỉ các-bon cả tự nguyện và bắt buộc, thông qua việc hình thành các dự án tín chỉ các-bon trong nông nghiệp. Qua đó, không chỉ tạo ra nguồn lực tài chính mới cho người dân và doanh nghiệp, mà còn thúc đẩy chuyển đổi xanh trong toàn ngành nông nghiệp.
Tuy nhiên, để làm được điều đó, cần có sự dẫn dắt thống nhất từ phía cơ quan quản lý nhà nước, thông qua việc ban hành một chương trình tổng thể, có tầm nhìn dài hạn, tích hợp các giải pháp về kỹ thuật, chính sách, tài chính, khoa học công nghệ, đào tạo, truyền thông và hợp tác quốc tế. Chương trình cũng cần xác định rõ các nhóm cây trồng chủ lực có tiềm năng giảm phát thải; xây dựng bộ tiêu chí, hướng dẫn kỹ thuật; góp phần tiến tới việc thiết lập cơ chế giám sát, đánh giá phát thải một cách minh bạch, hiệu quả.
Cam kết của Việt Nam
![]() |
Ngày 1/11/2021, tại Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu trong khuôn khổ COP26 tại TP. Glasgow, Scotland, Vương quốc Anh, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã công bố những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu. |
Tại Hội nghị COP26, Việt Nam cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về việc đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Ngay sau COP26, Việt Nam đã khẩn trương cụ thể hóa, bắt tay thực hiện ngay những cam kết của mình trước cộng đồng quốc tế.
Thực hiện các chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), các thành viên Ban Chỉ đạo đã chủ động thực hiện công việc được phân công. Các bộ, ngành và địa phương đã có một số kết quả quan trọng. Trong đó nổi bật là việc hoàn thiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045; xây dựng Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị COP26; Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050; Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon và khí methan của ngành giao thông vận tải; Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê tan đến năm 2030.Một số bộ, ngành đã và đang xây dựng Kế hoạch hành động của ngành triển khai cam kết của Việt Nam tại COP26 hướng tới mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng "0".
Đáng chú ý, tại Diễn đàn Thị trường Carbon Việt Nam 2025, ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, khẳng định: “Đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là mục tiêu phát triển tất yếu của thế giới và Việt Nam, đồng thời là cơ hội để thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và mở rộng hợp tác quốc tế về đầu tư, tài chính khí hậu”.
Việt Nam đã triển khai nhiều hành động cụ thể như ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược tăng trưởng xanh, và Đề án thực hiện cam kết Net Zero. Trong đó, thị trường carbon được xác định là công cụ quan trọng huy động nguồn lực xã hội cho giảm phát thải.
Theo Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày 24/1/2025 của Thủ tướng Chính phủ, lộ trình phát triển thị trường carbon tại Việt Nam được chia làm ba giai đoạn:
Trước tháng 6/2025: Xây dựng khung pháp lý và hạ tầng kỹ thuật.
Từ tháng 6/2025 đến hết 2028: Vận hành thí điểm.
Từ 2029: Chính thức đưa thị trường vào vận hành toàn quốc.
Theo Báo cáo Tình hình Thị trường Carbon Toàn cầu năm 2025 của Viện hành động về Carbon (ICAP), hiện có 38 hệ thống giao dịch phát thải (ETS) đang hoạt động trên toàn thế giới, bao phủ khoảng 19% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Sự gia tăng này cho thấy xu hướng toàn cầu trong việc sử dụng cơ chế thị trường để đạt được các mục tiêu giảm phát thải. |
Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng khung pháp lý, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, trong đó đặt ra lộ trình giảm phát thải cho từng giai đoạn cụ thể. Chiến lược này lồng ghép mục tiêu khí hậu vào các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, khuyến khích đầu tư vào công nghệ sạch, năng lượng tái tạo và nông nghiệp thông minh, nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu.
Như vậy, sau hơn ba năm kể từ cam kết tại COP26, Việt Nam đã xây dựng được nền tảng pháp lý và chiến lược phát triển đồng bộ, với các nghị định, chiến lược quốc gia và cơ chế thực thi cụ thể. Thị trường carbon đang dần hình thành và được kỳ vọng sẽ trở thành công cụ hiệu quả, giúp Việt Nam huy động nguồn lực xã hội và quốc tế cho chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực quản lý, giám sát và đẩy mạnh sự tham gia của doanh nghiệp, cộng đồng vào quá trình giảm phát thải. Có như vậy, nền kinh tế xanh và phát triển bền vững mới thực sự trở thành hiện thực.
Để góp phần thực hiện mục tiêu này, ngành nông nghiệp nói chung, lĩnh vực trồng trọt nói riêng cần triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm chuyển đổi phương thức canh tác, nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm phát thải, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Ngày 22/10/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị công bố Đề án "Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050" và tham vấn cho dự thảo kế hoạch hành động triển khai đề án là sự khẳng định cho tinh thần đồng hành, trách nhiệm, và quyết tâm cùng Bộ Nông nghiệp và Môi trường thực hiện thành công các chiến lược, định hướng về một nền nông nghiệp bền vững, phát thải thấp và góp phần giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Phát biểu tại Hội nghị Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung cho biết, Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến 2050” đã chính thức được ban hành theo Quyết định số 4042/QĐ-BNNMT ngày 29/9/2025. Đây là một bước đi chiến lược, thể hiện tư duy đổi mới và quyết tâm của ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi xanh và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đề án không chỉ đơn giản là một nhiệm vụ chuyên môn thuần tuý mà còn là cam kết của Việt Nam về một nền nông nghiệp minh bạch, trách nhiệm; góp phần đáng kể vào việc thực hiện cam kết chính trị quan trọng về Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, như Chính phủ đã công bố tại COP26. Việc thực hiện thành công Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến 2050” sẽ mang lại nhiều tác động tích cực cho ngành nông nghiệp nói chung và ngành trồng trọt nói riêng, thể hiện chung ở các nội dung sau: Thứ nhất – về môi trường và khí hậu: Các giải pháp canh tác tiên tiến như tưới ngập khô xen kẽ (AWD), sử dụng phân hữu cơ, tái chế phụ phẩm nông nghiệp, quản lý nước và dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp giảm mạnh phát thải khí mê-tan (CH₄) và nitơ oxit (N₂O) – hai loại khí có tác động gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất trong nông nghiệp. Dự tính, khi mở rộng áp dụng trên phạm vi cả nước, Đề án có thể giúp giảm trên 20 triệu tấn CO₂ tương đương mỗi năm, đóng góp thiết thực vào mục tiêu giảm phát thải quốc gia trong giai đoạn tới. Thứ hai – về kinh tế và sinh kế: Một số mô hình canh tác phát thải thấp đã chứng minh hiệu quả: giảm 10–20% chi phí đầu vào, tăng 5–10% năng suất, nâng 8–15% thu nhập cho nông dân. Đồng thời, nông sản phát thải thấp sẽ được thị trường quốc tế quan tâm hơn từ đó góp phần tiếp cận các thị trường có giá trị cao, xây dựng phân khúc sản phẩm bền vững, trách nhiệm cho nông sản Việt Nam. Bên cạnh đó cũng mở ra cơ hội tham gia thị trường tín chỉ các-bon, thu hút nguồn tài chính xanh và đầu tư bền vững từ các đối tác toàn cầu. Thứ ba – về tổ chức sản xuất và nhận thức: Các hoạt động trong khuôn khổ đề án được kỳ vọng sẽ tạo tiền đề hình thành hệ thống quản lý phát thải khí nhà kính trong trồng trọt thông qua cơ sở dữ liệu quốc gia và hệ thống MRV thống nhất, minh bạch; đồng thời thúc đẩy sự chuyển biến về tư duy từ sản xuất “tăng số lượng” sang sản xuất “xanh, thông minh, có trách nhiệm với môi trường”. Mặc dù đang phải đổi mặt với nhiều khó khăn về nhận thức, về cơ sở hạ tầng, về khoa học công nghệ và nguồn lực, nhưng Đề án đã xác định được 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, từ chuyển đối cơ cấu cây trồng, phát triển và ứng dụng các gói kỹ thuật, triển khai các mô hình và mở rộng diện tích áp dụng biện pháp canh tác giảm phát thải, thiết hệ thống MRV, nâng cao năng lực và chuyển đổi nhận thức; kết nối thị trường cho các sản phẩm phát thải thấp. Để thực hiện thành công các nhiệm vụ này, 7 nhóm giải pháp chính cũng đã được xác định để triển khai đồng bộ gồm nâng cao năng lực quản lý nhà nước vớ trọng tâm là hoàn thiện cơ chế, chính sách; khoa học công nghệ; tổ chức sản xuất; xây dựng cơ sở dữ liệu; các giải pháp về nguồn lực và tài chính; giải pháp về truyền thông và các giải pháp về hợp tác quốc tế. Tất cả các nhiệm vụ, giải pháp này sẽ được triển khai đồng loạt, thống nhất từ trung ương đến địa phương; từ khu vực công đến khu vực tư nhân để đạt được các mục tiêu của đề án. Trong đó phải kể đến lĩnh vực trồng trọt giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm cơ sở 2020; mỗi tỉnh, thành triển khai 1–2 mô hình phát thải thấp có khả năng nhân rộng, hình thành cơ sở dữ liệu phát thải trong trồng trọt kết nối đồng bộ với hệ thống Đăng ký quốc gia và xây dựng thương hiệu “Phát thải thấp” cho nông sản Việt Nam. Xa hơn, đến năm 2050, ngành trồng trọt nước ta phải trở thành ngành hàng xanh – sinh thái – hiện đại, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, dữ liệu số và các mô hình tuần hoàn, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu quốc gia về phát thải ròng bằng “0”. |
Mô hình thực tiễn đã và đang triển khai
![]() |
Mô hình trồng lúa giảm phát thải tại tỉnh Đồng Tháp. |
Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” là mô hình tiêu biểu đang triển khai từ năm 2024 đến 2030.
Mô hình áp dụng kỹ thuật giảm phát thải: tưới ngập khô xen kẽ (AWD), quản lý dinh dưỡng hợp lý, sử dụng giống hợp lý, khuyến cáo bón phân theo từng giai đoạn sinh trưởng phát triển, giảm lượng phân đạm và quản lý sử dụng hiệu quả rơm rạ. Bên cạnh đó, mô hình cũng tiến hành liên kết chuỗi giá trị và truy xuất nguồn gốc: hỗ trợ xây dựng mã vùng trồng, kết nối thị trường, hướng tới xuất khẩu gạo “các-bon thấp”.
Ngoài ra, mô hình MRV (đo đạc - báo cáo - thẩm định) cũng được triển khai xây dựng để có thể hình thành tín chỉ các-bon từ sản xuất lúa giảm phát thải.
Kết quả bước đầu từ các mô hình điểm do Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy giảm phát thải CH4 trung bình 30-45%, tiết kiệm nước từ 20-30%; giảm chi phí đầu vào 5-10%, tăng thu nhập 10-20% cho nông dân tham gia.
Tiềm năng mở rộng sản xuất, giảm phát thải
Hiện nay, bên cạnh lúa gạo, các cây trồng chủ lực như sắn, mía, rau các loại cũng có tiềm năng lớn trong giảm phát thải nếu áp dụng các biện pháp phù hợp, trên cơ sở giảm vật tư đầu vào nói chung như làm đất, nước tưới, sử dụng hợp lý thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, giống, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản và sơ chế, các biện pháp cụ thể cho từng cây trồng được áp dụng như sau:
Cây lúa: có thể áp dụng các biện pháp như tưới khô ướt xen kẽ, sử dụng giống hợp lý, giảm lượng phân đạm, sử dụng phân hữu cơ, từng bước thay thế một phần phân hóa học, tải sử dụng phế phụ phẩm, canh tác theo hướng hữu cơ.
Cây sắn: làm đất tối thiểu, luân canh với cây trồng họ đậu, bón phân hợp lý, tăng sử dụng phân hữu cơ theo hướng từng bước thay thế một phần phân hóa học, sử dụng hợp lý phế phụ phẩm và một số chế phẩm giữ ẩm (tại những vùng khô hạn, khó khăn về nước tưới).
Cây ăn quả: bón phân hợp lý, sử dụng biochar, quản lý và tuần hoàn tốt các phế phụ phẩm, tổ chức tái canh hoặc cạnh tác trên đất dốc hiệu quả, sử dụng năng lượng hợp lý trong quá trình canh tác.
Các biện pháp khác có thể được áp dụng như thúc đẩy thị trường nông sản được chứng nhận canh tác giảm phát thải, tiến hành các thủ tục để chuẩn bị cho việc tạo tín chỉ các-bon từ sản xuất trồng trọt giảm phát thải.
Tầm nhìn đến 2050 Đến năm 2050: Ngành trồng trọt Việt Nam sẽ phát triển theo hướng phát thải thấp, sinh thái và hiện đại, trở thành trụ cột quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh của nền nông nghiệp quốc gia. Hoạt động sản xuất trồng trọt được tổ chức theo chuỗi giá trị tuần hoàn, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số và nông nghiệp thông minh, đảm bảo sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, nước và vật tư đầu vào, đồng thời kiểm soát, hấp thụ và bù đắp phát thải một cách thực chất. Toàn ngành phấn đấu 100% diện tích cây trồng chủ lực áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác bền vững; hình thành cơ sở dữ liệu số hóa về phát thải trong trồng trọt, kết nối đồng bộ với hệ thống giám sát quốc gia; xây dựng và phổ cập nhãn hiệu “Phát thải thấp” cho các ngành hàng nông sản chủ lực. Việt Nam sẽ trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về phát triển nông sản có trách nhiệm với khí hậu, tạo dựng lợi thế cạnh tranh xanh trên thị trường quốc tế và đóng góp tích cực vào mục tiêu phát thải ròng bằng “0” theo cam kết tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp quốc về biến đổi khí hậu (COP26). |
(Còn tiếp) Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt: Bài 2 - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
![]() Sáng 22/10/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị công bố Đề án "Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt ... |
![]() PGS.TS Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho ... |
![]() Ngành trồng trọt đặt mục tiêu đến năm 2035 sẽ góp phần giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm ... |