Thứ tư 12/11/2025 18:32Thứ tư 12/11/2025 18:32 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn - Bài 1: Nền tảng khởi tạo chuỗi cung ứng bền vững

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Phát triển vùng nguyên liệu nông, lâm, thủy sản đạt chuẩn, quy mô tập trung và gắn kết bền vững với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ là xu thế tất yếu của nông nghiệp hiện đại. Đây là nền tảng cốt lõi để xây dựng chuỗi giá trị hiệu quả, minh bạch, nâng cao chất lượng sản phẩm và tối đa hóa thu nhập cho các bên.
Phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn - Bài 1: Nền tảng khởi tạo chuỗi cung ứng bền vững
(Ảnh minh họa)

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và nhu cầu thị trường về nông sản minh bạch, chất lượng cao ngày càng tăng, việc phát triển các vùng nguyên liệu đạt chuẩn, quy mô tập trung và gắn kết bền vững với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ đã trở thành xu hướng tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại. Vùng nguyên liệu đạt chuẩn là nền tảng cốt lõi để xây dựng các chuỗi giá trị nông sản hiệu quả và bền vững. Việc chuẩn hóa và tập trung hóa sản xuất mang lại nhiều lợi ích: giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tổn thất sau thu hoạch và minh bạch hóa quy trình sản xuất; tăng thu nhập ổn định cho nông dân, hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp; đồng thời tạo cơ sở vững chắc cho Nhà nước trong việc quản lý chất lượng, hỗ trợ chính sách (tín dụng, bảo hiểm) và phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng nông nghiệp.

Sau hơn 8 năm thực hiện đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” và gần 4 năm triển khai kế hoạch cơ cấu lại ngành giai đoạn 2017–2020, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể. Sản xuất bắt đầu chuyển đổi theo hướng hình thành các vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn, chuyên canh các nông sản chủ lực như tôm, cá tra, lúa gạo, trái cây, gỗ lớn, gắn với chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Đây là bước đi quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún phổ biến, các hộ nông dân chưa liên kết chặt chẽ thành hợp tác xã hay nhóm liên kết với doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ. Nhiều nhà máy chế biến thiếu nguồn nguyên liệu ổn định, trong khi một số vùng nguyên liệu đã hình thành nhưng chưa được tổ chức, quản trị và trang bị hạ tầng đầy đủ. Việc thiếu cơ sở dữ liệu sản xuất, truy xuất nguồn gốc và thương hiệu hàng hóa còn hạn chế triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nông sản.

Trước bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng và tác động ngày càng lớn của biến đổi khí hậu, việc phát triển các vùng nguyên liệu quy mô lớn, tập trung, hiện đại và bền vững trở thành yêu cầu cấp thiết. Nhằm thực hiện mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chỉ đạo xây dựng “Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn giai đoạn 2022–2025” trên 13 tỉnh, tập trung vào các sản phẩm chủ lực như cây ăn quả, lúa gạo, cà phê, gỗ lớn. Kinh nghiệm từ 5 vùng nguyên liệu thí điểm này sẽ là cơ sở quan trọng để nhân rộng mô hình ra cả nước, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hiện đại, nâng cao thu nhập cho nông dân và phát triển bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam.

Thúc đẩy liên kết với doanh nghiệp - khởi tạo chuỗi cung ứng bền vững

Liên kết với doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ được xác định là cơ sở để hình thành các vùng nguyên liệu quy mô tập trung, đồng bộ và bền vững. Doanh nghiệp, với vai trò là đầu tàu trong chuỗi giá trị, cam kết thu mua sản phẩm lâu dài và ổn định, từ đó đảm bảo đầu ra rõ ràng, ổn định và minh bạch. Sự cam kết này giúp nông dân và hợp tác xã yên tâm đầu tư vào sản xuất theo quy trình đạt chuẩn, đồng thời giảm thiểu rủi ro từ biến động thị trường hoặc yếu tố ngoại cảnh.

Liên kết doanh nghiệp - nông hộ còn khuyến khích ứng dụng khoa học - công nghệ, giống mới, quy trình canh tác tiên tiến, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị thương phẩm. Khi vùng nguyên liệu được tổ chức và quản trị theo nhu cầu thị trường, nó sẽ chuyển từ trạng thái manh mún, tự phát sang trạng thái tập trung, chuẩn hóa và có kiểm soát, tạo ra chuỗi cung ứng đồng bộ từ khâu sản xuất đến chế biến và tiêu thụ.

Ngoài việc đảm bảo ổn định nguồn cung cho doanh nghiệp, mô hình liên kết còn tạo nền tảng phát triển bền vững cho nông dân và hợp tác xã, hình thành thói quen sản xuất theo tiêu chuẩn, nâng cao năng lực quản lý và phát triển thương hiệu. Đồng thời, mối liên kết này còn thúc đẩy sự lan tỏa kỹ thuật và quản trị, hình thành hệ sinh thái sản xuất - chế biến - tiêu thụ có khả năng đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng trên quy mô cả nước và quốc tế.

Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng phát biểu tại Hội nghị.
Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng phát biểu tại Hội nghị sơ kết 6 năm triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Sau hơn 6 năm triển khai Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, hướng đi này đã chứng minh tính đúng đắn và phù hợp với đòi hỏi của một nền nông nghiệp hiện đại. Liên kết đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ về tư duy tổ chức sản xuất: giúp chuẩn hóa quy trình, hình thành các vùng nguyên liệu lớn, tập trung, từ đó nâng tầm thương hiệu nông sản Việt trên thị trường quốc tế. Nông dân đã thay đổi tư duy, chuyển từ sản xuất tự phát sang sản xuất theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, gắn với tiêu chuẩn kỹ thuật và được đảm bảo đầu ra ổn định.

Kết quả sơ kết 6 năm triển khai Nghị định 98 hết sức tích cực. Đến nay, cả nước đã hình thành hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá trị, thu hút khoảng 300.000 hộ nông dân tham gia. Đặc biệt, có tới gần 2.000 hợp tác xã (HTX) và tổ hợp tác đóng vai trò đầu mối, tổ chức vùng nguyên liệu và kiểm soát chất lượng. Khoảng 70% mô hình liên kết có sự tham gia của HTX trong vai trò đầu mối. Tổng vốn đầu tư huy động cho các mô hình này đã đạt trên 20.000 tỷ đồng, với tỷ lệ đối ứng vốn của doanh nghiệp chiếm từ 50–60%. Điều này thể hiện xu hướng chia sẻ rủi ro giữa các chủ thể. Với 2.938 dự án liên kết được phê duyệt, tổng vốn huy động đạt hơn 15.200 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ chiếm 21%. Con số này cho thấy, mỗi đồng ngân sách bỏ ra đã thu hút được 4,6 đồng vốn xã hội đầu tư cho chuỗi liên kết. Nhờ đó, tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo mô hình hợp tác đã tăng hơn 3 lần so với năm 2016, đạt trên 32% vào cuối năm 2025.

Liên kết không còn dừng lại ở hợp đồng mua – bán nông sản đơn thuần như trước đây, mà đã chuyển sang mô hình quản trị chuỗi giá trị khép kín hơn. Điển hình là Hợp tác xã Long Thành Phát (Đồng Nai) liên kết với Công ty KOYU & UNITEK, nơi nông dân không chỉ ký hợp đồng tiêu thụ mà còn được tăng quyền đàm phán trong việc tự đàm phán với nhà cung cấp vật tư, dịch vụ. Đây là một bước tiến quan trọng. Nhờ cơ chế hỗ trợ của nghị định, nhiều HTX đã được đầu tư kho bảo quản, máy sấy, hệ thống truy xuất nguồn gốc và được đào tạo về năng lực quản trị, giúp họ đủ sức đóng vai trò "xương sống" của chuỗi liên kết.

Phát biểu tại Hội nghị sơ kết 6 năm triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tổ chức ngày 11/11/2025, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng nhấn mạnh: “Liên kết chuỗi giá trị là chìa khóa thể chế cho nền nông nghiệp hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây không chỉ là chỉ đạo, mà còn là định hướng chiến lược cho tương lai ngành nông nghiệp Việt Nam”.

Tầm nhìn đến năm 2030

Phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn - Bài 1: Nền tảng khởi tạo chuỗi cung ứng bền vững
Việc chuẩn hóa và tập trung hóa sản xuất mang lại nhiều lợi ích: giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tổn thất sau thu hoạch và minh bạch hóa quy trình sản xuất; tăng thu nhập ổn định cho nông dân, hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp;...

Trong bối cảnh yêu cầu tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu nông sản ngày càng cao (mục tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 65 tỷ USD trong năm 2025), Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành Kế hoạch đẩy nhanh tiến độ thực hiện và đánh giá kết quả Đề án thí điểm giai đoạn 2022 - 2025, đồng thời đề xuất nhân rộng và xây dựng Đề án cho giai đoạn 2026 - 2030.

Kế hoạch lần này cho thấy quyết tâm của ngành nông nghiệp trong việc cải thiện chất lượng chuỗi cung ứng và tăng năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu. Theo đó, Bộ sẽ tập trung vào 05 nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2025: Đẩy mạnh công tác truyền thông về thành quả đạt được; Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ của Đề án giai đoạn thí điểm (2022 - 2025) để hoàn thành đúng thời gian, đạt hiệu quả, chất lượng; Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu; Hướng dẫn triển khai chính sách đầu tư hạ tầng cho HTX phát triển vùng nguyên liệu, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị; Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn và hướng dẫn các địa phương mở rộng vùng nguyên liệu.

Về Tầm nhìn 2030, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đặt mục tiêu mở rộng vùng nguyên liệu lên 1.829.161 ha tại 13 tỉnh (gấp hơn 10 lần so với giai đoạn thí điểm). Điểm mấu chốt là 100% diện tích mở rộng này sẽ có hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp, đảm bảo sự ổn định và bền vững tuyệt đối cho chuỗi giá trị nông sản chủ lực.

Đồng thời, Đề án cũng hướng tới việc hoàn thiện chuỗi giá trị bằng cách xây dựng 05 trung tâm logistic hỗ trợ hợp tác xã tại các vùng trọng điểm. Các trung tâm logistic này đóng vai trò là "cầu nối" vật chất và đầu mối trong sơ chế, chế biến, bảo quản, đóng gói và phân phối sản phẩm. Sự ra đời của chúng đảm bảo sự thông suốt, chuyên nghiệp hóa quá trình lưu thông sản phẩm từ vùng nguyên liệu đến thị trường, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh.

Đề án thí điểm được triển khai trên địa bàn 46 huyện, thành phố thuộc 13 tỉnh. Sự thành công của Đề án phụ thuộc vào sự cam kết hợp lực của các thành phần trong chuỗi cung ứng: Bên A (Nguồn cung) gồm 273 HTX và 186.280 hộ nông dân cam kết sản xuất đạt chuẩn; Bên B (Tiêu thụ/Chế biến) là các doanh nghiệp lớn cam kết liên kết, đầu tư và tiêu thụ sản phẩm; và Bên C (Hỗ trợ Chuỗi) là các tổ chức tín dụng (AgriBank), bảo hiểm (ABIC), và công ty công nghệ số hỗ trợ vốn, quản lý rủi ro và số hóa dữ liệu, giúp chuỗi vận hành minh bạch, hiệu quả và an toàn.

Còn tiếp Phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn - Bài 2: Tái cơ cấu nông nghiệp và thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt -Bài 1: Tính cấp thiết để phát triển nông nghiệp bền vững Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt -Bài 1: Tính cấp thiết để phát triển nông nghiệp bền vững

Trước diễn biến phức tạp và khó lường của biến đổi khí hậu, sản xuất giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt trở thành ...

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài 2: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài 2: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Trong hơn một thập kỷ qua, giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp - đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt đã được ...

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài cuối: Truyền thông dẫn dắt và lan tỏa tri thức phát triển nông nghiệp xanh Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài cuối: Truyền thông dẫn dắt và lan tỏa tri thức phát triển nông nghiệp xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp, giảm phát thải trong lĩnh vực trồng ...

Bài liên quan

Tổng Bí thư Tô Lâm: Phát triển mạnh nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao

Tổng Bí thư Tô Lâm: Phát triển mạnh nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao

Tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngành Nông nghiệp và Môi trường (1945 - 2025) và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, cần tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sinh thái - giá trị gia tăng cao, chuyển nền nông nghiệp từ phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu, từ tăng sản lượng sang nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, xây dựng thương hiệu. Phát triển mạnh nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao.
Ngành Nông nghiệp và Môi trường đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất

Ngành Nông nghiệp và Môi trường đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất

Sáng ngày 12/11 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), Bộ Nông nghiệp và Môi trường long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngành Nông nghiệp và Môi trường (1945 - 2025) và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I. Đồng thời, vinh dự đón đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất và tuyên dương các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2020 - 2025.
Dấu ấn 8 thập kỷ ngành Nông nghiệp và Môi trường: Kế thừa và đổi mới vì phát triển xanh, bền vững

Dấu ấn 8 thập kỷ ngành Nông nghiệp và Môi trường: Kế thừa và đổi mới vì phát triển xanh, bền vững

80 năm trước, vào ngày 14/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký quyết nghị thành lập Bộ Canh nông, tiền thân của ngành Nông nghiệp và Môi trường hiện nay. Trải qua tám thập kỷ xây dựng và phát triển, ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam từng bước khẳng định vai trò nền tảng trong phát triển kinh tế, định hướng tới nông nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh.
Nông lâm thủy sản xuất khẩu ước đạt hơn 58 tỷ USD sau 10 tháng

Nông lâm thủy sản xuất khẩu ước đạt hơn 58 tỷ USD sau 10 tháng

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tháng 10 năm 2025 kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 5,96 tỷ USD, tăng 6,3% so với tháng 10/2024; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 58,13 tỷ USD sau 10 tháng, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2024.
Tiêu chuẩn quốc gia cho giống khoai tây - Bài cuối: Hướng tới đảm bảo an ninh lương thực và kinh tế nông nghiệp

Tiêu chuẩn quốc gia cho giống khoai tây - Bài cuối: Hướng tới đảm bảo an ninh lương thực và kinh tế nông nghiệp

Việc xây dựng và hoàn thiện Tiêu chuẩn quốc gia về khảo nghiệm DUS (tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định) đối với giống khoai tây không chỉ là bước tiến trong công tác chọn tạo và quản lý giống cây trồng, mà còn mở ra hướng đi mới trong đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.
Tiêu chuẩn quốc gia cho giống khoai tây - Bài 1: Bước tiến để Việt Nam chủ động nguồn giống sạch, chất lượng cao

Tiêu chuẩn quốc gia cho giống khoai tây - Bài 1: Bước tiến để Việt Nam chủ động nguồn giống sạch, chất lượng cao

Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đang lấy ý kiến cho dự thảo Tiêu chuẩn quốc gia “Giống cây trồng nông nghiệp - Khảo nghiệm tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định - Phần 25: Giống khoai tây”; hướng tới hoàn thiện cơ sở pháp lý và kỹ thuật cho công tác khảo nghiệm, bảo hộ giống khoai tây phù hợp với điều kiện sản xuất và thông lệ quốc tế.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Hoàn thiện quy trình sản xuất để phát triển mô hình trồng trọt hữu cơ

Hoàn thiện quy trình sản xuất để phát triển mô hình trồng trọt hữu cơ

Trong bối cảnh khí hậu biến đổi nhanh, tài nguyên suy giảm và yêu cầu về an toàn thực phẩm gia tăng, trồng trọt hữu cơ không còn là lựa chọn bên lề mà đang trở thành một hệ thống sản xuất có chuẩn mực, có chuỗi cung ứng minh bạch và có khả năng tạo giá trị gia tăng bền vững.
Dấu ấn 8 thập kỷ ngành Nông nghiệp và Môi trường: Kế thừa và đổi mới vì phát triển xanh, bền vững

Dấu ấn 8 thập kỷ ngành Nông nghiệp và Môi trường: Kế thừa và đổi mới vì phát triển xanh, bền vững

80 năm trước, vào ngày 14/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký quyết nghị thành lập Bộ Canh nông, tiền thân của ngành Nông nghiệp và Môi trường hiện nay. Trải qua tám thập kỷ xây dựng và phát triển, ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam từng bước khẳng định vai trò nền tảng trong phát triển kinh tế, định hướng tới nông nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh.
Canh tác hữu cơ để phát triển nông nghiệp bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Canh tác hữu cơ để phát triển nông nghiệp bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Đại học Cần Thơ (ĐHCT) vừa tổ chức Hội thảo quốc tế “Nông nghiệp hữu cơ - Sản xuất bền vững (ISOP 2025)” từ ngày 4 đến 6/11, trong khuôn khổ Nghị định thư “Nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp khoa học, công nghệ và thị trường cho sản xuất lúa gạo hữu cơ ở Đồng bằng sông Cửu Long”, hợp tác giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức.
Chuẩn hóa khảo nghiệm DUS giống khoai tây - Bài 2: Nền tảng phát triển giống cây trồng Việt Nam

Chuẩn hóa khảo nghiệm DUS giống khoai tây - Bài 2: Nền tảng phát triển giống cây trồng Việt Nam

Khảo nghiệm DUS (tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định) là bước quan trọng trong đánh giá, bảo hộ và thương mại hóa giống cây trồng, đảm bảo giống có tính khác biệt, đồng nhất và ổn định qua các thế hệ.
Tìm giải pháp nâng cao giá trị chuỗi sản xuất ngành sắn

Tìm giải pháp nâng cao giá trị chuỗi sản xuất ngành sắn

Với mục tiêu đến năm 2030 kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam đạt 1,8-2,0 tỷ USD, hướng tới 2,5 tỷ USD vào năm 2050. Bên cạnh đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu nông nghiệp xanh, sinh thái và kinh tế tuần hoàn.
Diệt rệp sáp cà phê bằng chế phẩm hữu cơ tự chế

Diệt rệp sáp cà phê bằng chế phẩm hữu cơ tự chế

Trước tình trạng người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học tràn lan để diệt rệp sáp trên cây cà phê, gây ô nhiễm môi trường và làm mất cân bằng hệ sinh thái, các cán bộ Công ty TNHH MTV Cà phê 15 (Quân khu 5) đã nghiên cứu, chế tạo thành công chế phẩm sinh học thân thiện với môi trường, giúp kiểm soát hiệu quả loại dịch hại này.
Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Theo ông Đặng Huy Đông, Trưởng Ban Vận động thành lập Hiệp hội chuyển đổi xanh Việt Nam (VGA), niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh, chỉ có thể được xây dựng khi các chủ thể tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình minh bạch và cam kết phát triển bền vững.
Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Để bảo vệ và cải tạo đất các địa phương cần tái cơ cấu ngành lúa gạo (giảm diện tích lúa độc canh; phát triển mô hình xen canh, đa canh; tăng cường lúa chất lượng cao); áp dụng khoa học công nghệ và nông nghiệp thông minh (nông nghiệp thông minh, chính xác; phát triển giống lúa thích ứng; thúc đẩy một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp).
Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng lộ trình tiến tới ngừng nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất carbosulfan và benfuracarb (thuộc nhóm thuốc trừ sâu) tại Việt Nam.
Giải pháp xanh cho nông nghiệp bền vững bằng chế phẩm sinh học HLC

Giải pháp xanh cho nông nghiệp bền vững bằng chế phẩm sinh học HLC

Nông nghiệp Việt Nam đang hướng tới mô hình sản xuất sạch, an toàn và bền vững, việc ứng dụng các chế phẩm sinh học ngày càng trở thành xu hướng tất yếu. Các chế phẩm này không chỉ giúp cải thiện năng suất, chất lượng nông sản mà còn giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ không chỉ là một phương thức canh tác mà còn là một hệ thống giá trị, trong đó sự công bằng đóng vai trò then chốt. Nguyên tắc về sự công bằng trong nông nghiệp hữu cơ vượt ra ngoài phạm vi kinh tế, bao gồm cả sự công bằng về xã hội, môi trường và đạo đức. Nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững, không chỉ mang lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng mà còn đảm bảo quyền lợi và phúc lợi cho tất cả các bên liên quan, bao gồm cả môi trường và các thế hệ tương lai.
Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng (Care), đôi khi còn được gọi là nguyên tắc phòng ngừa (Precautionary Principle), là một trong bốn nguyên tắc cốt lõi của nông nghiệp hữu cơ, bên cạnh các nguyên tắc về sức khỏe, sinh thái và công bằng.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính