![]() |
| (Ảnh minh họa) |
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và nhu cầu thị trường về nông sản minh bạch, chất lượng cao ngày càng tăng, việc phát triển các vùng nguyên liệu đạt chuẩn, quy mô tập trung và gắn kết bền vững với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ đã trở thành xu hướng tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại. Vùng nguyên liệu đạt chuẩn là nền tảng cốt lõi để xây dựng các chuỗi giá trị nông sản hiệu quả và bền vững. Việc chuẩn hóa và tập trung hóa sản xuất mang lại nhiều lợi ích: giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tổn thất sau thu hoạch và minh bạch hóa quy trình sản xuất; tăng thu nhập ổn định cho nông dân, hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp; đồng thời tạo cơ sở vững chắc cho Nhà nước trong việc quản lý chất lượng, hỗ trợ chính sách (tín dụng, bảo hiểm) và phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng nông nghiệp.
| Sau hơn 8 năm thực hiện đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” và gần 4 năm triển khai kế hoạch cơ cấu lại ngành giai đoạn 2017–2020, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể. Sản xuất bắt đầu chuyển đổi theo hướng hình thành các vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn, chuyên canh các nông sản chủ lực như tôm, cá tra, lúa gạo, trái cây, gỗ lớn, gắn với chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị. Đây là bước đi quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt trên thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún phổ biến, các hộ nông dân chưa liên kết chặt chẽ thành hợp tác xã hay nhóm liên kết với doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ. Nhiều nhà máy chế biến thiếu nguồn nguyên liệu ổn định, trong khi một số vùng nguyên liệu đã hình thành nhưng chưa được tổ chức, quản trị và trang bị hạ tầng đầy đủ. Việc thiếu cơ sở dữ liệu sản xuất, truy xuất nguồn gốc và thương hiệu hàng hóa còn hạn chế triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nông sản. Trước bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng và tác động ngày càng lớn của biến đổi khí hậu, việc phát triển các vùng nguyên liệu quy mô lớn, tập trung, hiện đại và bền vững trở thành yêu cầu cấp thiết. Nhằm thực hiện mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chỉ đạo xây dựng “Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn giai đoạn 2022–2025” trên 13 tỉnh, tập trung vào các sản phẩm chủ lực như cây ăn quả, lúa gạo, cà phê, gỗ lớn. Kinh nghiệm từ 5 vùng nguyên liệu thí điểm này sẽ là cơ sở quan trọng để nhân rộng mô hình ra cả nước, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hiện đại, nâng cao thu nhập cho nông dân và phát triển bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam. |
Thúc đẩy liên kết với doanh nghiệp - khởi tạo chuỗi cung ứng bền vững
Liên kết với doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ được xác định là cơ sở để hình thành các vùng nguyên liệu quy mô tập trung, đồng bộ và bền vững. Doanh nghiệp, với vai trò là đầu tàu trong chuỗi giá trị, cam kết thu mua sản phẩm lâu dài và ổn định, từ đó đảm bảo đầu ra rõ ràng, ổn định và minh bạch. Sự cam kết này giúp nông dân và hợp tác xã yên tâm đầu tư vào sản xuất theo quy trình đạt chuẩn, đồng thời giảm thiểu rủi ro từ biến động thị trường hoặc yếu tố ngoại cảnh.
Liên kết doanh nghiệp - nông hộ còn khuyến khích ứng dụng khoa học - công nghệ, giống mới, quy trình canh tác tiên tiến, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị thương phẩm. Khi vùng nguyên liệu được tổ chức và quản trị theo nhu cầu thị trường, nó sẽ chuyển từ trạng thái manh mún, tự phát sang trạng thái tập trung, chuẩn hóa và có kiểm soát, tạo ra chuỗi cung ứng đồng bộ từ khâu sản xuất đến chế biến và tiêu thụ.
Ngoài việc đảm bảo ổn định nguồn cung cho doanh nghiệp, mô hình liên kết còn tạo nền tảng phát triển bền vững cho nông dân và hợp tác xã, hình thành thói quen sản xuất theo tiêu chuẩn, nâng cao năng lực quản lý và phát triển thương hiệu. Đồng thời, mối liên kết này còn thúc đẩy sự lan tỏa kỹ thuật và quản trị, hình thành hệ sinh thái sản xuất - chế biến - tiêu thụ có khả năng đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng trên quy mô cả nước và quốc tế.
Sau hơn 6 năm triển khai Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, hướng đi này đã chứng minh tính đúng đắn và phù hợp với đòi hỏi của một nền nông nghiệp hiện đại. Liên kết đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ về tư duy tổ chức sản xuất: giúp chuẩn hóa quy trình, hình thành các vùng nguyên liệu lớn, tập trung, từ đó nâng tầm thương hiệu nông sản Việt trên thị trường quốc tế. Nông dân đã thay đổi tư duy, chuyển từ sản xuất tự phát sang sản xuất theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, gắn với tiêu chuẩn kỹ thuật và được đảm bảo đầu ra ổn định. Kết quả sơ kết 6 năm triển khai Nghị định 98 hết sức tích cực. Đến nay, cả nước đã hình thành hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá trị, thu hút khoảng 300.000 hộ nông dân tham gia. Đặc biệt, có tới gần 2.000 hợp tác xã (HTX) và tổ hợp tác đóng vai trò đầu mối, tổ chức vùng nguyên liệu và kiểm soát chất lượng. Khoảng 70% mô hình liên kết có sự tham gia của HTX trong vai trò đầu mối. Tổng vốn đầu tư huy động cho các mô hình này đã đạt trên 20.000 tỷ đồng, với tỷ lệ đối ứng vốn của doanh nghiệp chiếm từ 50–60%. Điều này thể hiện xu hướng chia sẻ rủi ro giữa các chủ thể. Với 2.938 dự án liên kết được phê duyệt, tổng vốn huy động đạt hơn 15.200 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ chiếm 21%. Con số này cho thấy, mỗi đồng ngân sách bỏ ra đã thu hút được 4,6 đồng vốn xã hội đầu tư cho chuỗi liên kết. Nhờ đó, tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo mô hình hợp tác đã tăng hơn 3 lần so với năm 2016, đạt trên 32% vào cuối năm 2025. Liên kết không còn dừng lại ở hợp đồng mua – bán nông sản đơn thuần như trước đây, mà đã chuyển sang mô hình quản trị chuỗi giá trị khép kín hơn. Điển hình là Hợp tác xã Long Thành Phát (Đồng Nai) liên kết với Công ty KOYU & UNITEK, nơi nông dân không chỉ ký hợp đồng tiêu thụ mà còn được tăng quyền đàm phán trong việc tự đàm phán với nhà cung cấp vật tư, dịch vụ. Đây là một bước tiến quan trọng. Nhờ cơ chế hỗ trợ của nghị định, nhiều HTX đã được đầu tư kho bảo quản, máy sấy, hệ thống truy xuất nguồn gốc và được đào tạo về năng lực quản trị, giúp họ đủ sức đóng vai trò "xương sống" của chuỗi liên kết. Phát biểu tại Hội nghị sơ kết 6 năm triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tổ chức ngày 11/11/2025, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng nhấn mạnh: “Liên kết chuỗi giá trị là chìa khóa thể chế cho nền nông nghiệp hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây không chỉ là chỉ đạo, mà còn là định hướng chiến lược cho tương lai ngành nông nghiệp Việt Nam”. |
Tầm nhìn đến năm 2030
![]() |
| Việc chuẩn hóa và tập trung hóa sản xuất mang lại nhiều lợi ích: giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tổn thất sau thu hoạch và minh bạch hóa quy trình sản xuất; tăng thu nhập ổn định cho nông dân, hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp;... |
Trong bối cảnh yêu cầu tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu nông sản ngày càng cao (mục tiêu tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 65 tỷ USD trong năm 2025), Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa ban hành Kế hoạch đẩy nhanh tiến độ thực hiện và đánh giá kết quả Đề án thí điểm giai đoạn 2022 - 2025, đồng thời đề xuất nhân rộng và xây dựng Đề án cho giai đoạn 2026 - 2030.
Kế hoạch lần này cho thấy quyết tâm của ngành nông nghiệp trong việc cải thiện chất lượng chuỗi cung ứng và tăng năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu. Theo đó, Bộ sẽ tập trung vào 05 nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2025: Đẩy mạnh công tác truyền thông về thành quả đạt được; Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ của Đề án giai đoạn thí điểm (2022 - 2025) để hoàn thành đúng thời gian, đạt hiệu quả, chất lượng; Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu; Hướng dẫn triển khai chính sách đầu tư hạ tầng cho HTX phát triển vùng nguyên liệu, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị; Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu vùng nguyên liệu nông sản đạt chuẩn và hướng dẫn các địa phương mở rộng vùng nguyên liệu.
Về Tầm nhìn 2030, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đặt mục tiêu mở rộng vùng nguyên liệu lên 1.829.161 ha tại 13 tỉnh (gấp hơn 10 lần so với giai đoạn thí điểm). Điểm mấu chốt là 100% diện tích mở rộng này sẽ có hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp, đảm bảo sự ổn định và bền vững tuyệt đối cho chuỗi giá trị nông sản chủ lực.
Đồng thời, Đề án cũng hướng tới việc hoàn thiện chuỗi giá trị bằng cách xây dựng 05 trung tâm logistic hỗ trợ hợp tác xã tại các vùng trọng điểm. Các trung tâm logistic này đóng vai trò là "cầu nối" vật chất và đầu mối trong sơ chế, chế biến, bảo quản, đóng gói và phân phối sản phẩm. Sự ra đời của chúng đảm bảo sự thông suốt, chuyên nghiệp hóa quá trình lưu thông sản phẩm từ vùng nguyên liệu đến thị trường, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đề án thí điểm được triển khai trên địa bàn 46 huyện, thành phố thuộc 13 tỉnh. Sự thành công của Đề án phụ thuộc vào sự cam kết hợp lực của các thành phần trong chuỗi cung ứng: Bên A (Nguồn cung) gồm 273 HTX và 186.280 hộ nông dân cam kết sản xuất đạt chuẩn; Bên B (Tiêu thụ/Chế biến) là các doanh nghiệp lớn cam kết liên kết, đầu tư và tiêu thụ sản phẩm; và Bên C (Hỗ trợ Chuỗi) là các tổ chức tín dụng (AgriBank), bảo hiểm (ABIC), và công ty công nghệ số hỗ trợ vốn, quản lý rủi ro và số hóa dữ liệu, giúp chuỗi vận hành minh bạch, hiệu quả và an toàn.
Còn tiếp ► Phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn - Bài 2: Tái cơ cấu nông nghiệp và thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng
Trước diễn biến phức tạp và khó lường của biến đổi khí hậu, sản xuất giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt trở thành ... |
Trong hơn một thập kỷ qua, giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp - đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt đã được ... |
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp, giảm phát thải trong lĩnh vực trồng ... |