![]() |
| PGS.TS Lê Quốc Doanh nhấn mạnh, khi triển khai các mô hình tại địa phương, cần lồng ghép hoạt động tập huấn và truyền thông ngay từ đầu, giúp nông dân hiểu, tin và sẵn sàng áp dụng. (Ảnh minh họa) |
| Nhằm triển khai thực hiện các hoạt động tuyên truyền, truyền thông cho Đề án sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến 2050 (Đề án) được phê duyệt tại Quyết định số 4024/QĐ-BNNMT ngày 29/9/2021 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường được đồng bộ, kịp thời, thống nhất và hiệu quả, Tạp chí điện tử Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam triển khai thực hiện tuyến bài "Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt" với mục tiêu triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi hệ thống sản xuất trồng trọt theo hướng phát thải thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện sinh kế cho người dân và phát triển bền vững. Qua đó giúp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành hàng trồng trọt, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, từng bước hình thành nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, có khả 2 năng chống chịu tốt trước tác động của biến đổi khí hậu, góp phần thực hiện các cam kết Việt Nam trong NDC (Đóng góp do quốc gia tự quyết định). |
Thực tiễn
Hiện nay, các cơ chế khuyến nghị và hỗ trợ tài chính vẫn chưa được triển khai cụ thể, dẫn tới nông dân và doanh nghiệp không có nhiều động lực để chuyển đổi kỹ thuật hoặc đầu tư vào mô hình canh tác giảm phát thải do chi phí ban đầu cao, rủi ro thị trường lớn; đồng thời cũng thiếu các chính sách hỗ trợ cụ thể như ưu đãi tín dụng xanh, bảo hiểm rủi ro, trợ giá vật tư đầu vào thân thiện môi trường, cũng như hỗ trợ chuyển đổi đất đai và cơ sở hạ tầng.
Ngoài ra, vẫn chưa có quy chuẩn, tiêu chí quốc gia về “trồng trọt giảm phát thải” hoặc “trồng trọt phát thải thấp”: việc đánh giá thế nào là “sản xuất trồng trọt giảm phát thải” hiện chưa có quy định chính thức. Điều này dẫn tới khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch giảm phát thải, cũng như chứng nhận, giám sát và thương mại hóa tín chỉ các-bon.
| Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã thay mặt Việt Nam đưa ra cam kết mạnh mẽ đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Để thực hiện mục tiêu này, ngành nông nghiệp nói chung, lĩnh vực trồng trọt nói riêng cần triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm chuyển đổi phương thức canh tác, nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm phát thải, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng khung pháp lý, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, trong đó đặt ra lộ trình giảm phát thải cho từng giai đoạn cụ thể. Chiến lược này lồng ghép mục tiêu khí hậu vào các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, khuyến khích đầu tư vào công nghệ sạch, năng lượng tái tạo và nông nghiệp thông minh, nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. Như vậy, sau hơn ba năm kể từ cam kết tại COP26, Việt Nam đã xây dựng được nền tảng pháp lý và chiến lược phát triển đồng bộ, với các nghị định, chiến lược quốc gia và cơ chế thực thi cụ thể. Thị trường carbon đang dần hình thành và được kỳ vọng sẽ trở thành công cụ hiệu quả, giúp Việt Nam huy động nguồn lực xã hội và quốc tế cho chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực quản lý, giám sát và đẩy mạnh sự tham gia của doanh nghiệp, cộng đồng vào quá trình giảm phát thải. Có như vậy, nền kinh tế xanh và phát triển bền vững mới thực sự trở thành hiện thực. Trong bối cảnh đó, Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050” (Đề án) đã được Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng, ban hành với kỳ vọng sẽ góp phần tích cực thay đổi nhận thức, tư duy sản xuất trồng trọt từ sản lượng sang giá trị, phát triển nhưng gắn với bền vững, xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam gắn với hình ảnh chất lượng nhưng đầy trách nhiệm và minh bạch. Thông qua việc triển khai đề án, một hướng tiếp cận mới sẽ được mở ra đó là coi giảm phát thải là động lực nâng cao chất lượng, giá trị, thu nhập và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Quan trọng hơn, Đề án sẽ là tiền đề thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nông dân – nhà khoa học – đối tác quốc tế, như vậy, một liên minh mới sẽ được hình thành là 5 nhà thay vì chỉ 4 như trước kia. Lần đầu tiên, các đối tác quốc tế được chính thức ghi nhận là một thành tố không thể tách rời khỏi chuỗi giá trị nông sản chất lượng cao, phát thải thấp. Khi được triển khai đồng bộ, Đề án sẽ không chỉ góp phần bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, mà còn định vị lại hình ảnh nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại, sinh thái và có trách nhiệm với khí hậu toàn cầu. |
Về khoa học công nghệ và hệ thống MRV, hầu hết các mô hình giảm phát thải hiện nay chưa có hệ thống MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định) được chuẩn hóa, dẫn đến khó đánh giá tác động thực tế và khó tích hợp vào các cơ chế tín chỉ các-bon; thiếu hệ thống MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định) riêng cho trồng trọt; chưa xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia hoặc hệ thống báo cáo phát thải định kỳ theo cây trồng, vùng sinh thái và biện pháp canh tác; dữ liệu liên quan đến phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực trồng trọt còn rời rạc, thiếu cập nhật và chưa được chuẩn hóa; hệ thống cơ sở dữ liệu phát thải tại cấp địa phương vẫn chưa được thiết lập hoặc còn rất hạn chế, gây khó khăn cho việc tổng hợp, theo dõi và phục vụ xây dựng chính sách giảm phát thải một cách hiệu quả; các số liệu phát thải CH4, N2O từ một số cây trồng chủ lực còn thiếu; thiếu hướng dẫn kỹ thuật cụ thể, quy trình kỹ thuật về canh tác giảm phát thải cho từng cây trồng chủ lực (ngoài cây lúa);...
Vấn đề truyền thông và nhận thức cũng là một thách thức lớn đối với việc hoàn thành mục tiêu giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt. Hiện nay, nhận thức của nông dân và chính quyền địa phương về sản xuất trồng trọt giảm phát thải vẫn còn hạn chế. Trên thực tế, khái niệm về phát thải khí nhà kính, tín chỉ các-bon và sản xuất giảm phát thải còn khá mới đối với phần lớn nông dân và cán bộ kỹ thuật địa phương. Kiến thức và nhận thức về khí metan - một trong những nguồn phát thải lớn nhất trong trồng trọt từ canh tác lúa nước, vẫn còn hạn chế trong cả cộng đồng nông dân lẫn đội ngũ quản lý. Trong khi đó, nhận thức đóng vai trò quan trọng, là điều kiện tiên quyết giúp định hướng hành động. Chỉ có nhận thức đúng đắn mới góp phần tạo nên hành động đúng đắn.
Việc triển khai các mô hình canh tác mới thường đối mặt với rào cản lớn trong việc cập nhật khoa học - kỹ thuật, xuất phát từ một chuỗi yếu tố liên kết. Về mặt tư duy và tập quán, nhiều nông dân đã quen với các phương thức sản xuất truyền thống đã được truyền lại qua nhiều thế hệ; những thói quen này đi kèm với nhận thức an toàn, dẫn tới tâm lý e ngại thử nghiệm kỹ thuật mới, đặc biệt khi lợi ích kỳ vọng mang tính dài hạn trong khi chi phí và rủi ro ban đầu rõ rệt. Thêm vào đó, người nông dân thường ưu tiên bảo toàn vốn và năng lực sản xuất ngắn hạn hơn là đầu tư vào thay đổi quy trình hoặc công nghệ mà họ chưa chắc chắn về hiệu quả thực tế tại điều kiện địa phương.
PGS.TS Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam cho rằng, đề án trồng trọt giảm phát thải và đề án nâng cao sức khỏe đất được ban hành tháng 10/2024 chính là “xương sống” của ngành trồng trọt trong giai đoạn mới. Chỉ chưa đầy 1 tháng sau khi đề án trồng trọt giảm phát thải được ban hành, dự thảo kế hoạch hành động đã được xây dựng, cho thấy quyết tâm rất lớn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong triển khai định hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững và phát thải thấp. Theo ông Doanh, ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch hành động là xây dựng và ban hành gói kỹ thuật để chuyển giao cho các địa phương, do Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật chủ trì. Đây là nền tảng quan trọng giúp các tỉnh, thành có thể nhanh chóng triển khai thực tế trên đồng ruộng. Trước mắt, gói kỹ thuật nên tập trung vào các nhóm cây trồng chủ lực, vừa giúp tạo tác động lớn, vừa thuận lợi trong việc nhân rộng. “Gói kỹ thuật cần kế thừa những kết quả đã được kiểm chứng trong các chương trình trước đây”, ông Doanh nói. Ông dẫn chứng, Dự án VnSAT từng hỗ trợ tái canh cây lúa, cà phê rất hiệu quả, giúp 180.000 ha lúa áp dụng quy trình canh tác tiên tiến, tiết kiệm nước, giảm phát thải khí nhà kính. Từ nền tảng đó, Việt Nam đã phát triển thành Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp đang được triển khai tại ĐBSCL hiện nay. Một hướng đi cần được quan tâm nữa là mô hình nông lâm kết hợp, vốn đã chứng minh tính hiệu quả tại khu vực Tây Bắc. Đây cũng là xu thế chung của thế giới trong nỗ lực giảm phát thải và bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp. Việc nhân rộng mô hình này không chỉ giúp giảm khí nhà kính mà còn cải thiện sinh kế, chống xói mòn đất và tăng khả năng hấp thụ carbon của rừng trồng. Ông Doanh nhấn mạnh, khi triển khai các mô hình tại địa phương, cần lồng ghép hoạt động tập huấn và truyền thông ngay từ đầu, giúp nông dân hiểu, tin và sẵn sàng áp dụng. “Mô hình phải thiết kế sao cho khi xây dựng xong có thể chuyển đổi sản xuất ngay trên diện rộng. Mục tiêu đến năm 2050 là 100% cây trồng chủ lực của Việt Nam áp dụng biện pháp giảm phát thải”, ông nhấn mạnh. |
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều thiếu sót trong công tác tuyên truyền và phổ cập kiến thức: chưa có tài liệu truyền thông, tập huấn hoặc chương trình giáo dục nông nghiệp để phổ biến khái niệm canh tác giảm phát thải một cách hệ thống cho người nông dân. Các hoạt động tuyên truyền mới dừng lại ở các kênh: trang thông tin điện tử, tập huấn, hội nghị, hội thảo khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng... nhưng chưa thực sự đến gần với công chúng nói chung và người nông dân nói riêng.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng là một thách thức lớn đối với việc thực hiện giảm phát thải trồng trọt. Đội ngũ cán bộ khuyến nông, cán bộ kỹ thuật (nhất là lực lượng chuyên trách kỹ thuật tại địa phương) chưa được đào tạo bài bản về kiểm kê khí nhà kính, kỹ thuật MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định), các giải pháp canh tác các-bon thấp. Việc nhân rộng mô hình chủ yếu vẫn còn phụ thuộc vào các dự án viện trợ hoặc thí điểm nhỏ lẻ, chưa có chương trình đào tạo nghệ hoặc chính sách nhân lực lâu dài.
Vấn đề hợp tác quốc tế vẫn chưa gắn chặt với một định hướng tổng thể về chuyển đổi ngành trồng trọt theo hướng phát thải thấp; phần lớn vẫn mang tính thử nghiệm, manh mún, chưa tạo được tác động lan tỏa. Nội dung hợp tác chưa bám sát các trọng tâm kỹ thuật; năng lực tiếp nhận và triển khai của từng địa phương còn yếu; việc hấp thụ và nội địa hóa các mô hình còn gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân là những đối tượng trực tiếp thực hành chuyển đổi vẫn chưa được tích cực lồng ghép vào các chương trình hợp tác quốc tế, dẫn tới thiếu động lực thị trường để thúc đẩy canh tác phát thải thấp.
Giải pháp
Đối với vấn đề hoàn thiện thể chế, chính sách và công cụ hỗ trợ, cần rà soát, sửa đổi và bổ sung các văn bản liên quan, trong đó lồng ghép yêu cầu giảm phát thải khí nhà kính trong các chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án ngành trồng trọt; xây dựng và triển khai các cơ chế chính sách ưu đãi tài chính cho nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sang canh tác giảm phát thải; xây dựng, ban hành bộ tiêu chí về canh tác trồng trọt giảm phát thải và xây dựng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ.
Vai trò chỉ đạo, điều phối và giám sát thực hiện Đề án ở cấp Trung ương và địa phương cũng cần được nâng cao, bằng cách tăng cường phân cấp, giao quyền cho địa phương trong việc lựa chọn, phát triển mô hình, mở rộng diện tích áp dụng, xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ và huy động nguồn lực triển khai; tổ chức họp định kỳ, sơ kết, tổng kết theo từng giai đoạn; tăng cường kiểm tra, giám sát thực địa kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho địa phương; tăng cường vai trò giám sát xã hội của các tổ chức hội, hiệp hội, liên minh hợp tác xã, tổ chức cộng đồng và người dân trong quá trình thực hiện Đề án tại địa phương.
Để hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý, theo dõi, đánh giá hiệu quả chương trình, cần ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo kỹ thuật, biểu mẫu, quy trình giám sát và đánh giá định kỳ kết quả thực hiện giảm phát thải; ứng dụng công nghệ số trong giám sát phát thải, quản lý vùng nguyên liệu, truy xuất nguồn gốc và thống kê sản lượng giảm phát thải; xây dựng và vận hành hệ thống giám sát - đánh giá thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bao gồm bộ chỉ số đo lường giảm phát thải và kết quả chuyển đổi mô hình sản xuất.
![]() |
| Ảnh minh họa. |
Đối với khía cạnh khoa học, công nghệ và chuyển giao kỹ thuật, cần đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện và chuẩn hóa các gói kỹ thuật canh tác giảm phát thải, phù hợp từng cây trồng, vùng sinh thái và điều kiện sản xuất; ứng dụng một số biện pháp khoa học như: sử dụng phế phụ phẩm sản xuất than sinh học, phân hữu cơ, đưa bèo hoa dâu vào hệ thống canh tác…; ứng dụng công nghệ số, cảm biến, trí tuệ nhân tạo, nông nghiệp chính xác để tối ưu hóa quản lý nước, phân bón và giám sát phát thải trong trồng trọt; phát triển các mô hình trình diễn thực tế tại địa phương để phổ biến kỹ thuật mới, tổ chức “cánh đồng học tập” và đào tạo nông dân; tăng cường hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thông qua hệ thống khuyến nông, hợp tác xã, doanh nghiệp dịch vụ nông nghiệp.
Về vấn đề tổ chức sản xuất và chuỗi giá trị, cần thúc đẩy tái cơ cấu sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất giảm phát thải với chế biến, tiêu thụ, truy xuất nguồn gốc và tín chỉ các-bon; khuyến khích phát triển mô hình kinh tế hợp tác, tổ hợp tác, hợp tác xã làm hạt nhân trong tổ chức canh tác giảm phát thải; hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào vùng nguyên liệu, áp dụng mô hình đồng quản lý phát thải giữa nông dân và đơn vị thu mua; thực hiện truy xuất nguồn gốc các-bon (footprint), hỗ trợ xây dựng thương hiệu nông sản giảm phát thải.
Để xây dựng hệ thống dữ liệu và quản lý phát thải hiệu quả, cần dựa trên cơ sở hệ thống MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định) cho ngành trồng trọt đã thực hiện (đã và đang thực hiện), xây dựng hệ thống MRV hoàn chỉnh có thể đảm bảo tính minh bạch, đồng bộ và có thể tích hợp với các tiêu chuẩn quốc tế; ứng dụng công nghệ viễn thám, GIS và hệ thống báo cáo số hóa để theo dõi, giám sát hiệu quả các mô hình và toàn chương trình; liên thông dữ liệu với hệ thống kiểm kê khí nhà kính quốc gia để phục vụ thống kê, điều hành và báo cáo quốc tế.
Để giải quyết khó khăn liên quan tới nguồn lực tài chính và thị trường, cần huy động đa dạng nguồn lực, bao gồm: ngân sách nhà nước, vốn sự nghiệp khoa học, khuyến nông, chương trình mục tiêu quốc gia: giữ vai trò “dẫn dắt”, đầu tư vào các cấu phần có tính nền tảng như chính sách, cơ sở dữ liệu, đào tạo, mô hình thí điểm, khuyến nông, giám sát địa phương…; vốn tư nhân, vốn xã hội hóa trong tổ chức sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ kỹ thuật và thu mua nông sản tập trung vào các hoạt động liên kết chuỗi giá trị, đầu tư thiết bị canh tác, mở rộng diện tích áp dụng các quy trình canh tác giảm phát thải, vận hành hệ thống MRV, hệ thống truy xuất nguồn gốc các-bon, ứng dụng công nghệ số, cơ sở chế biến, bảo quản nông sản giảm phát thải; nguồn tài trợ quốc tế, vốn ODA, vốn khí hậu và các chương trình giảm phát thải toàn cầu, ưu tiên bố trí cho các hợp phần về MRV, chuyển giao công nghệ, thử nghiệm tín chỉ các-bon, đào tạo và nâng cao năng lực…; mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản giảm phát thải, ưu tiên các thị trường có yêu cầu cao về môi trường như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ.
Đối với vấn đề hợp tác quốc tế và hội nhập, Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế (FAO, WB, GIZ, Chương trình phát triển Liên hợp quốc - UNDP, Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp - IFAD, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản - JICA… trong nghiên cứu kỹ thuật, hỗ trợ triển khai mô hình, xây dựng năng lực MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định) và kết nối các tín chỉ các-bon. Đồng thời, cần học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, tiêu chuẩn kỹ thuật, mô hình hợp tác công - tư trong phát triển nông nghiệp các-bon thấp, đồng thời vận dụng linh hoạt theo điều kiện Việt Nam.
Trước những rào cản trong nhận thức và tư duy, truyền thông chính là cầu nối giúp cho những kiến thức về giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt đến gần hơn với người nông dân và chính quyền địa phương. Trong đó, báo chí, mạng xã hội, các chương trình truyền hình, hội chợ và triển lãm,... sẽ là những công cụ hữu hiệu giúp tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về lợi ích và xu hướng sản xuất trồng trọt giảm phát thải.
Ngoài ra, cần tăng cường phổ biến kiến thức cho cộng đồng về thị trường các-bon; lồng ghép nội dung canh tác giảm phát thải các chương trình đào tạo nghề, khuyến nông và các chương trình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật.
Đối với những thiếu sót trong công tác tuyên truyền và phổ cập kiến thức, có thể triển khai các chương trình truyền thông, tập huấn nhận thức chung về canh tác giảm phát thải, về phát triển các chuỗi giá trị trồng trọt theo hướng tuần hoàn, bền vững, giảm phát thải; đồng thời xây dựng bộ tài liệu chuẩn hóa, bao gồm: sổ tay kỹ thuật, tờ rơi, infographic, video hướng dẫn,... phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối tượng.
Truyền thông có thể được lồng ghép vào các chương trình đào tạo thông qua tiến hành các chương trình tập huấn chuyên sâu về kỹ thuật canh tác giảm phát thải, hệ thống MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định), tín chỉ các-bon,... cho cán bộ quản lý, khuyến nông, nông dân nòng cốt và doanh nghiệp; tích hợp chương trình đào tạo nghề nông nghiệp, phổ cập kiến thức về tín chỉ các-bon và nông nghiệp tuần hoàn. Bên cạnh đó, cần biên soạn và phổ biến tài liệu đào tạo, sổ tay kỹ thuật, công cụ hướng dẫn kỹ thuật canh tác giảm phát thải cho cán bộ và nông dân. Ngoài ra, cần phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng, mạng xã hội, tổ chức hội chợ, diễn đàn để tuyên truyền, lan tỏa mô hình canh tác giảm phát thải.
Theo ông Nguyễn Ngọc Thạch - Tổng biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, trên hành trình phát triển kinh tế xanh và nông nghiệp xanh, báo chí truyền thông chính là lực lượng tiên phong, dẫn dắt và lan tỏa tri thức. Qua đó, ông Thạch bày tỏ mong muốn các cơ quan báo chí sẽ tiếp tục đồng hành trong thời gian tới để góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nông nghiệp phát thải thấp, bền vững của Việt Nam. |
Muốn giảm phát thải, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ, vì chỉ khi rút nước kịp thời mới có thể thực ... |
PGS.TS Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho ... |
Ngành trồng trọt đặt mục tiêu đến năm 2035 sẽ góp phần giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm ... |