Thứ hai 25/11/2024 01:30Thứ hai 25/11/2024 01:30 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Thuốc bảo vệ thực vật sinh học: Kinh nghiệm Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brazil

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Bùng nổ đăng ký sản phẩm thuốc BVTV sinh học ở các nước. Tại Hàn Quốc, cho phép bán hàng online thuốc BVTV, nghiêm cấm bán hàng online thuốc BVTV hóa học.
Mông dân Thái Lan chủ yếu sử dụng thuốc BVTV sinh học để bổ sung và thay thế một phần thuốc hóa học. Ảnh minh họa.

Mông dân Thái Lan chủ yếu sử dụng thuốc BVTV sinh học để bổ sung và thay thế một phần thuốc hóa học. Ảnh minh họa.

Thái Lan lập kênh ‘đăng ký nhanh’ thuốc sinh học

Thái Lan là một trong những nước sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) hóa học khá nhiều trong sản xuất nông nghiệp. Năm 2020, Thái Lan nhập khẩu trên 98 ngàn tấn thuốc BVTV hóa học, tương đương 945 triệu USD, trong khi đó nhập khẩu thuốc BVTV sinh học khoảng 1,6 triệu USD, mặc dù có một số thuốc BVTV sinh học được sản xuất trong nước.

Giảm sử dụng thuốc BVTV hóa học, loại bỏ các hoạt chất thuốc hóa học độc hại, tăng sử dụng thuốc sinh học được Thái Lan quan tâm, đặc biệt trong khoảng thời gian 10-15 năm gần đây.

Hiện tại, nông dân Thái Lan chủ yếu sử dụng thuốc BVTV sinh học để bổ sung và thay thế một phần thuốc hóa học. Nghiên cứu tại Thái Lan đã chỉ ra một số khó khăn chính trong việc thúc đẩy sử dụng thuốc BVTV sinh học bao gồm: Hiệu lực của thuốc sinh học thấp hơn và chậm hơn thuốc hóa học; Thời gian bảo quản thuốc ngắn hơn và chất lượng thuốc dễ bị giảm do điều kiện bảo quản; Chuyên tính hẹp và không được phong phú về chủng loại của thuốc BVTV sinh học để đáp ứng nhu cầu của người sản xuất; Người sản xuất có nhận thức và hiểu biết hạn chế trong sử dụng thuốc BVTV sinh học. Ngoài ra, nguồn nhân lực về nghiên cứu, phát triển công nghệ thuốc BVTV sinh học của Thái Lan vẫn còn hạn chế.

Để thúc đẩy phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học, Thái Lan có quy định về kênh đăng ký nhanh (Fast track registration) đồng thời có sáng kiến ban hành Danh mục thuốc sinh học “độ rủi ro thấp” (minimum risk biopesticides). Năm 2021, số lượng các hoạt chất thuốc sinh học thuộc Danh mục này đã tăng từ 5 lên 17. Đối với các sản phẩm được sản xuất từ các hoạt chất trong Danh mục thuốc sinh học độ rủi ro thấp không cần phải thử nghiệm độc lý học (Toxicology test exempted), vì vậy thời gian chờ đăng ký được rút ngắn xuống còn khoảng 6-12 tháng.

Đối với các loại thuốc sinh học khác, thời gian thực hiện các thủ tục để được đăng ký tại Thái Lan là khoảng 18- 24 tháng, tương tự như ở Mỹ, Úc, nhanh hơn so với ở Nhật Bản và EU.

‘Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh’ ở Nhật Bản

Theo Mordor Intelligence (2023), thị trường thuốc BVTV sinh học của Nhật Bản có tổng giá trị năm 2023 khoảng trên 700 triệu USD, dự báo tăng trưởng 12%/năm giai đoạn 2023 - 2028. Nhật Bản là nước có chính sách khuyến khích sử dụng thuốc BVTV sinh học từ những năm 1950s, với lượng lớn, những năm gần đây đứng khoảng thứ 4 - thứ 5 trên thế giới (Tetsuo Tommy Wada, 2016).

Bộ Nông Lâm nghiệp Nhật Bản đã công bố 'Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh' vào năm 2021. Ảnh minh họa.

Bộ Nông Lâm nghiệp Nhật Bản đã công bố “Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh” vào năm 2021. Ảnh minh họa.

Bộ Nông Lâm nghiệp Nhật Bản (MAFF) đã sửa đổi Quy định về Hóa chất Nông nghiệp vào năm 2018 và quy định đánh giá lại tất cả các sản phẩm BVTV đã đăng ký tại Nhật Bản phù hợp với thông tin khoa học mới nhất. Chương trình đánh giá lại bắt đầu vào năm 2021, yêu cầu đánh giá lại tất cả các sản phẩm BVTV đã đăng ký cứ sau 15 năm. Các tổ chức, cá nhân đăng ký thuốc được thông báo về việc đánh giá lại trước 2 năm. Mặc dù một số loại thuốc BVTV sinh học đã được đăng ký, MAFF có kế hoạch thiết lập một hướng dẫn mới về thuốc BVTV sinh học, đồng thời đưa ra quy trình đánh giá lại đối với thuốc sinh học.

Năm 2021, MAFF đã công bố “Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh” với mục tiêu cải thiện năng suất và tính bền vững của lương thực, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản thông qua đổi mới. Tương tự như chiến lược “Từ trang trại đến bàn ăn” của châu Âu, “Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh” nhằm đạt được một số mục tiêu như không phát thải CO2, giảm 50% rủi ro hóa chất nông nghiệp; giảm 30% sử dụng phân bón hóa học vào năm 2050. Để duy trì các mục tiêu chiến lược, MAFF đang khuyến khích phát triển và giới thiệu thuốc BVTV sinh học cũng như các công nghệ liên quan dựa vào tự nhiên. Với việc thực hiện “Chiến lược hệ thống thực phẩm xanh”, vai trò của thuốc BVTV sinh học trên thị trường nông nghiệp Nhật Bản dự kiến ​​sẽ ngày càng trở nên quan trọng.

Trong công tác quản lý thuốc BVTV sinh học, Nhật Bản rất coi trọng an toàn sinh học, chất lượng, hiệu quả của thuốc và vấn đề sở hữu trí tuệ.

Để thúc đẩy phát triển, ứng dụng các biện pháp sinh học, trong đó có việc sản xuất, sử dụng thuốc sinh học thay thế thuốc hóa học, Hội BVTV sinh học Nhật Bản (Japan Bio-control Association) đã được thành lập vào năm 2016, thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các tập đoàn, doanh nghiệp lớn đang sản xuất, cung ứng thuốc BVTV sinh học.

4 động lực thúc đẩy tăng trưởng thuốc BVTV sinh học ở Hàn Quốc

Kể từ năm 2001, việc sử dụng thuốc BVTV hóa học ở Hàn Quốc đã giảm dần sau khi tăng từ năm 1970 đến năm 1990. Năm 2020, 16.278 tấn thuốc BVTV đã được sử dụng, giảm so với 16.745 tấn của năm trước. Sự sụt giảm này được lý giải là do nông dân nhận thức rõ hơn về sự cần thiết sử dụng thuốc BVTV sinh học thay thế thuốc hóa học.

Năm 2019, giá trị thị trường thuốc BVTV của Hàn Quốc là 1,26 tỷ USD, trong đó thuốc sinh học là 0,3 tỷ USD. Giá trị thị trường thuốc BVTV sinh học của Hàn Quốc những năm gần đây tăng trưởng khoảng 5-10%/năm.

Các chất kích thích sinh học được Hàn Quốc coi là thuốc BVTV sinh học và được đánh giá là giải pháp mới. Ảnh minh họa.

Các chất kích thích sinh học được Hàn Quốc coi là thuốc BVTV sinh học và được đánh giá là giải pháp mới. Ảnh minh họa.

Động lực chính thúc đẩy tăng trưởng sản xuất và sử dụng thuốc BVTV tại Hàn Quốc bao gồm:

a) Chính sách tăng cường kiểm soát an toàn thực phẩm nông sản thông qua việc áp dụng hệ thống PLS (Positive List System); theo đó Hàn Quốc yêu cầu kiểm tra ATTP đối với 370 hoạt chất thuốc BVTV trên nông sản thực phẩm, bao gồm khoảng gần 240 hoạt chất được đăng ký tại Hàn Quốc và 134 hoạt chất chưa được đăng ký. Đối với các hoạt chất không được đăng ký tại Hàn Quốc, nước này áp dụng mức MRL mặc định là 0,01ppm hoặc thấp hơn. Quy định này đã khuyến khích việc sử dụng thuốc BVTV sinh học an toàn, không để lại dư lượng, đặc biệt ở giai đoạn cuối của cây trồng.

b) Hiện tượng kháng thuốc hóa học của nhiều đối tượng sinh vật hại cây trồng như: Bọ trĩ, nhện, nấm phấn trắng… đã khuyến khích người sản xuất sử dụng thuốc sinh học kết hợp hoặc thay thế thuốc hóa học do thuốc hóa học không có hiệu quả.

c) Sự xuất hiện của những sản phẩm thuốc BVTV sinh học mới, với dạng chế phẩm thuận tiện cho việc sử dụng, hiệu quả cao. Khoảng 10 năm trước, không ai tin rằng thuốc trừ sâu sinh học hoặc chất kích thích sinh học sẽ được bán với giá hơn 1 triệu USD mỗi năm dưới dạng một sản phẩm ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, một số sản phẩm đã chứng minh rằng định kiến này chắc chắn là sai. Một loại thuốc diệt nấm sinh học đã đạt doanh thu gần 10 triệu USD hàng năm và một số chất kích thích sinh học đã ghi nhận doanh thu hàng năm hơn 1 triệu USD. Thực tế này chứng tỏ rằng thuốc trừ sâu sinh học và chất kích thích sinh học đang ngày càng được coi trọng hơn và sử dụng rộng rãi, hiệu quả hơn tại Hàn Quốc.

d) Sự phát triển rộng rãi của hình thức giới thiệu và bán hàng online đã góp phần thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học. Hàn Quốc quy định được phép bán thuốc BVTV sinh học online, trong khi đó hình thức bán hàng này không được phép đối với thuốc BVTV hóa học.

Một điều đáng chú ý là tại Hàn Quốc những năm gần đây, trên thị trường đã xuất hiện các chất kích thích sinh học (bio-stimulants). Các chất này cũng được Hàn Quốc coi là thuốc BVTV sinh học và đang được nông dân đánh giá cao, là một giải pháp mới trong lĩnh vực bảo vệ thực vật, đặc biệt là tăng khả năng chịu đựng của cây trồng đối với các điều kiện bất thuận như hạn hán, lũ lụt, thay đổi nhiệt độ cao hay thấp và nứt quả. Sự thành công của chất giữ nước trong đất (Smart Water) và chất chống nứt quả (Fitomaat) chứng tỏ xu hướng mới này đang ngày càng phát huy hiệu quả thực tế trong lĩnh vực sản xuất và ứng dụng thuốc BVTV sinh học ở Hàn Quốc.

Brazil: Bùng nổ đăng ký sản phẩm sinh học

Thị trường thuốc trừ sâu sinh học Brazil ước tính đạt khoảng 340 triệu USD vào năm 2021, nhưng dự đoán rằng thuốc trừ sâu sinh học có tiềm năng tăng 107% đến năm 2030, đạt khoảng 700 triệu USD. Đặc biệt, hơn 2,5 triệu ha trồng đậu tương ở Brazil đã được xử lý bằng thuốc sinh học phòng trừ tuyến trùng trong vụ mùa 2018/2019.

Tại Brazil, thuốc sinh học trừ tuyến trùng được sử dụng trên 90% diện tích trồng đậu tương và khoảng 70% tổng lượng thuốc sinh học trừ tuyến trùng được sử dụng trên đậu tương.

Thị trường thuốc BVTV sinh học của Brazil giai đoạn 2023 - 2028 được dự báo tăng trưởng 8.2%/năm.

Thị trường thuốc BVTV sinh học của Brazil giai đoạn 2023 - 2028 được dự báo tăng trưởng 8.2%/năm.

Năm 2013, chỉ có 107 loại thuốc trừ sâu sinh học được đăng ký tại Brazil. Năm 2023, số lượng sản phẩm sinh học được đăng ký ở Brazil là 502 chứng tỏ rằng xu hướng phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học rất mạnh mẽ tại quốc gia này. Thị trường thuốc BVTV sinh học của Brazil giai đoạn 2023 - 2028 được dự báo tăng trưởng 8.2%/năm.

Brazil có quy định cho phép sản xuất thuốc BVTV vi sinh ở quy mô trang trại (on-farm biopesticide production) với mục đích “phi thương mại” (non-commercial purpose) Người sản xuất để tự sử dụng không phải đăng ký thuốc, không cần chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, chỉ cần ghi chép nhật ký một số thông tin cơ bản quá trình sản xuất, sử dụng các chủng vi sinh có trong Danh mục đăng ký hoặc các chủng vi sinh bản địa.

nongnghiep.vn

Bài liên quan

Thái Bình: Triển khai kế hoạch sản xuất trồng trọt năm 2025

Thái Bình: Triển khai kế hoạch sản xuất trồng trọt năm 2025

Trong năm 2025 tỉnh Thái Bình phấn đấu tốc độ tăng trưởng lĩnh vực trồng trọt từ 0,6% trở lên.
Nông nghiệp xanh: Bắc Âu "mách nước" cho Việt Nam

Nông nghiệp xanh: Bắc Âu "mách nước" cho Việt Nam

Học hỏi kinh nghiệm từ các nước Bắc Âu, Việt Nam đang hướng tới phát triển nông nghiệp xanh, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ và xây dựng chuỗi cung ứng bền vững để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Ý tưởng dự án “Mùn sầu riêng Durico” đạt quán quân cuộc thi Agriup 2024

Ý tưởng dự án “Mùn sầu riêng Durico” đạt quán quân cuộc thi Agriup 2024

Với 5 đội vào vòng chung kết cuộc thi “Agriup - Tìm kiếm ý tưởng khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong kinh doanh nông nghiệp 2024”, quán quân đã thuộc về nhóm Durico với ý tưởng dự án “Mùn sầu riêng Durico”.
Việt Nam quyết tâm xây dựng một nền kinh tế xanh và bền vững

Việt Nam quyết tâm xây dựng một nền kinh tế xanh và bền vững

Chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế xanh vẫn là xu thế tất yếu, lựa chọn chiến lược của các quốc gia và hy vọng cho các thế hệ tương lai. Để kiến tạo Tương lai xanh, phải có tư duy xanh, tầm nhìn xanh, kết hợp với công nghệ xanh, năng lượng xanh và lối sống xanh.
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ và công nghệ cao

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ và công nghệ cao

Sáng 21/10, Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV chính thức khai mạc. Tạp chí điện tử Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Phạm Minh Chính trình bày tại phiên khai mạc Kỳ họp.
Nâng cao sức khỏe đất góp phần phát triển nông nghiệp xanh, bền vững

Nâng cao sức khỏe đất góp phần phát triển nông nghiệp xanh, bền vững

Mục tiêu và kỳ vọng giúp ổn định và nâng cao sức khỏe đất trồng trọt trên cơ sở quản lý dinh dưỡng cây trồng hiệu quả nhằm hạn chế suy thoái đất, nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất trồng trọt, góp phần phát triển nông nghiệp xanh, bền vững

CÁC TIN BÀI KHÁC

Cao Bằng: Nâng tầm thương hiệu “Nếp hương Bảo Lạc”

Cao Bằng: Nâng tầm thương hiệu “Nếp hương Bảo Lạc”

Người dân huyện Bảo Lạc (Cao Bằng) tự hào về quê hương mình. Miền quê biên viễn không chỉ giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, mà còn được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho khí hậu trong lành mát mẻ, đất đai màu mỡ, phì nhiêu, với nhiều đặc sản quý, trong đó có gạo nếp hương nức tiếng bởi gạo có độ dẻo khi nấu, vị ngọt khi ăn và hương thơm đặc trưng không loại nếp nào có được.
Gia Lai: Hướng tới tương lai xanh với nông nghiệp hữu cơ

Gia Lai: Hướng tới tương lai xanh với nông nghiệp hữu cơ

Gia Lai đang từng bước khẳng định vị thế là một trong những trung tâm sản xuất nông nghiệp hữu cơ hàng đầu của Việt Nam. Với lợi thế về đất đai, khí hậu và sự quan tâm đầu tư của chính quyền địa phương, tỉnh này đang tạo ra những bước tiến đáng kể trong việc chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp sang hướng bền vững.
Hà Nội: Hoa, cây cảnh - Ngành kinh tế mũi nhọn đầy tiềm năng

Hà Nội: Hoa, cây cảnh - Ngành kinh tế mũi nhọn đầy tiềm năng

Hà Nội đang đẩy mạnh phát triển ngành hoa, cây cảnh thành mũi nhọn kinh tế, với mục tiêu đạt giá trị sản xuất 10.000 tỷ đồng vào năm 2025 và 15.000 - 20.000 tỷ đồng vào năm 2030.
Hà Nội nâng cao quản lý kinh doanh trái cây, hướng đến an toàn người tiêu dùng

Hà Nội nâng cao quản lý kinh doanh trái cây, hướng đến an toàn người tiêu dùng

Hà Nội đang triển khai mạnh mẽ Đề án "Tăng cường quản lý các cửa hàng kinh doanh trái cây trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2025" với mục tiêu đảm bảo an toàn thực phẩm cho người dân, đồng thời xây dựng môi trường kinh doanh trái cây văn minh, hiện đại.
"Tiêu dùng xanh" lên ngôi: Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt

"Tiêu dùng xanh" lên ngôi: Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt

Người tiêu dùng Việt Nam đang hướng đến "tiêu dùng xanh", ưu tiên sản phẩm bền vững, thân thiện môi trường, tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiên phong nhưng cũng đặt ra thách thức về chuyển đổi tư duy và công nghệ sản xuất xanh.
Đắk Lắk: OCOP là đòn bẩy nâng tầm nông sản đặc sản

Đắk Lắk: OCOP là đòn bẩy nâng tầm nông sản đặc sản

Đắk Lắk với tiềm năng nông nghiệp dồi dào, đang tận dụng chương trình OCOP để nâng cao giá trị và mở rộng thị trường cho các sản phẩm đặc sản như cà phê, bơ, sầu riêng, ca cao và mắc ca.
Hà Nội: Gần 3.000 sản phẩm OCOP khẳng định sức hút làng nghề

Hà Nội: Gần 3.000 sản phẩm OCOP khẳng định sức hút làng nghề

Gần 3.000 sản phẩm OCOP được chứng nhận, Hà Nội đang gặt hái nhiều thành công trong chương trình "Mỗi xã một sản phẩm", góp phần phát triển kinh tế nông thôn và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống.
Hưng Yên quyết tâm đưa OCOP lên tầm cao mới

Hưng Yên quyết tâm đưa OCOP lên tầm cao mới

Hưng Yên đang đẩy mạnh nâng cao chất lượng sản phẩm OCOP, tập trung vào đổi mới, sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao và xây dựng thương hiệu, hướng đến phát triển bền vững, góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn.
Cao Bằng: Chú trọng gia tăng giá trị cây thạch đen

Cao Bằng: Chú trọng gia tăng giá trị cây thạch đen

Cây thạch đen (cây sương sáo) có giá trị kinh tế cao, có tiềm năng phát triển sản xuất hàng hóa và xuất khẩu, được huyện Thạch An (Cao Bằng) xác định cây trồng chủ lực trong phát triển kinh tế của huyện, được nhiều hộ nông dân lựa chọn để đầu tư phát triển. Cây thạch đen đã góp phần tạo nguồn lực cho nông dân cơ hội thực hiện hiệu quả giảm nghèo bền vững, vươn lên làm giàu, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cà Mau: Tiên phong nuôi tôm rừng sinh thái

Cà Mau: Tiên phong nuôi tôm rừng sinh thái

Tôm rừng Cà Mau, sản vật quý giá từ vùng đất mũi, đang vươn tầm quốc tế nhờ mô hình nuôi sinh thái bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế cao đồng thời bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn.
Hưng Yên: Nâng tầm thương hiệu sản phẩm chủ lực bằng sở hữu trí tuệ

Hưng Yên: Nâng tầm thương hiệu sản phẩm chủ lực bằng sở hữu trí tuệ

Hưng Yên đang đẩy mạnh việc bảo hộ nhãn hiệu cho các sản phẩm chủ lực, coi đây là chìa khóa để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đắk Nông: 5 sản phẩm được công nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu

Đắk Nông: 5 sản phẩm được công nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu

Cục Công Thương địa phương (Bộ Công Thương) vừa ký Quyết định, công nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu khu vực miền Trung - Tây Nguyên năm 2024.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2024 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính