Năm 2023, Việt Nam xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 53 tỷ USD. Tuy nhiên, nhìn chung nông sản Việt Nam vẫn bán với giá thấp và gặp nhiều khó khăn để xuất khẩu tới các thị trường khó tính. Với nông sản hữu cơ lại càng là một bài toán khó, bởi đây là những sản phẩm chất lượng nên không dễ để có thị phần. Trước thực trạng này, phóng viên Tạp chí Hữu cơ Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn bà Đặng Thị Bích Hường, Phó Chủ tịch, TTK Hiệp hội nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam.
PV: Xuất khẩu nông sản nói chung và nông sản Hữu cơ nói riêng luôn là một bài toán khó với các doanh nghiệp Việt Nam. Theo bà, hiện các doanh nghiệp Việt Nam gặp những khó khăn gì trong việc đưa nông sản Hữu cơ ra thị trường thế giới?
Bà Đặng Thị Bích Hường: Theo tôi những khó khăn không chỉ với sản phẩm hữu cơ mà đây cũng là khó khăn chung cho nông sản Việt Nam khi đưa ra thị trường thế giới. Vì thế, các doanh nghiệp cần hiểu rào cản nằm ở đâu và giải quyết vấn đề như thế nào để có thể Xúc tiến thương mại nông sản Hữu cơ ra thị trường quốc tế.
1. Hiểu thị trường: Thông thường nếu sản xuất với tư duy phục vụ thị trường sẽ cần có khảo sát thị trường trước, sau đó mới lên kế hoạch sản xuất. Nhưng nhà sản xuất nông sản nói chung và nông sản hữu cơ nói riêng thường đi ngược lại, đó là chủ động chọn giống, trồng cây/chăn nuôi, rồi khi có sản phẩm mới tìm thị trường tiêu thụ. Việc này khiến chi phí tiếp cận thị trường tăng lên, thậm chí vượt ngoài năng lực đầu tư của doanh nghiệp/nhà sản xuất.
2. Cần hợp tác: Doanh nghiệp sản xuất hữu cơ chủ yếu vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy việc hợp tác, đi cùng nhau ra thị trường rất quan trọng, đây là một trong những cản trở cho hàng hữu cơ Việt Nam ra thế giới khi sản lượng chưa đáp ứng được nhu cầu của các thị trường lớn. Việc hợp tác, hợp thương để đưa hàng xuất khẩu cùng nhau là một giải pháp Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOAA) đã đưa ra và được các doanh nghiệp ủng hộ cũng như đồng hành.
Hàng năm chúng tôi tổ chức các đoàn giao thương tới Đức, Mỹ, Trung Quốc, Úc đều có sự ủng hộ của nhiều doanh nghiệp, doanh nghiệp lớn có, vừa và nhỏ có, nhưng chúng tôi luôn hỗ trợ các giải pháp đi Xúc tiến thương mại cùng nhau nhằm giảm tối đa chi phí cho Doanh nghiệp, trong khi tận dụng được lợi thế của các doanh nghiệp thành viên trong đoàn, có những chuyến xuất chung hàng hữu cơ đã được tổ chức thành công và đã giúp doanh nghiệp giảm đáng kể chi phí vận chuyển, lưu kho tại nước ngoài.
3. Thương hiệu: Khi đưa doanh nghiệp đi xúc tiến thương mại tại các thị trường quốc tế, tôi nhận thấy các sản phẩm hữu cơ của Việt Nam có thể rất ngon, chất lượng tốt nhưng việc chúng ta tự định vị mình là doanh nghiệp bán buôn và không xây dựng thương hiệu bán lẻ, không chú tâm kể những câu chuyện về sản phẩm đủ hấp dẫn người mua là một yếu điểm, trong khi giá trị gia tăng chủ yếu được thu từ bán lẻ và xây dựng thương hiệu.
Một sản phẩm cần phải có thương hiệu, có câu chuyện thì giá trị sẽ được nhân lên từ đó, như câu chuyện chè Việt Nam bán sang Đài Loan và gắn mác chè Đài Loan xuất sang châu Âu bán giá cao gấp 10 lần giá mua chè từ Việt Nam. Như vậy chất lượng sản phẩm rõ ràng không đổi, chỉ có thương hiệu và câu chuyện thay đổi, giá bán của một sản phẩm đã được nhân lên 10 lần.
4. Giá thành cao: Việc sản xuất hữu cơ manh mún, chưa chủ động được vật tư đầu vào do còn nhiều sản phẩm vật tư nhập khẩu (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sinh học…) và tốn nhiều chi phí quản lý vùng sản xuất hữu cơ đã khiến giá thành sản phẩm hữu cơ Việt Nam cao hơn so với các nước khu vực như Thái Lan, Campuchia, Sri Lanka… Điều này khiến tính cạnh tranh của sản phẩm hữu cơ Việt Nam trong khu vực chưa cao. Để tăng cường tính cạnh tranh doanh nghiệp Việt Nam cần có các giải pháp giảm giá thành như sử dụng các vật tư đầu vào tại địa phương hoặc quy hoạch vùng nguyên liệu sao cho dễ quản lý và giảm thiểu rủi ro khi đánh giá chứng nhận…
Đoàn VOAA cùng 19 doanh nghiệp, hợp tác xã hữu cơ, giảng viên đại học, chuyên gia nông nghiệp của Việt Nam tham gia chuyến tham quan học tập hữu cơ tại Úc do Mekong Organics tổ chức hồi tháng 3/2024. |
PV: Trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn vừa qua, bà đã dẫn đoàn các doanh nghiệp Việt Nam tham dự hội chợ hương mại hàng đầu thế giới về thực phẩm Hữu cơ Biofach 2024 (13-16/2/2024) tại Nuremberg, Đức. Đây là lần thứ 7 liên tiếp Việt Nam góp mặt tại Biofach, theo bà xu hướng thương mại Hữu cơ thế giới đã có những thay đổi gì và các doanh nghiệp Việt Nam đã chuyển mình ra sao để theo kịp dòng chảy của thị trường?
Bà Đặng Thị Bích Hường: Thực ra hàng năm chúng tôi đều có các đoàn xúc tiến thương mại quốc tế, đặc biệt tháng 2 mỗi năm đều có đoàn tham gia Biofach Đức, đến nay đã được 7 năm liên tiếp và tôi thấy rằng, mỗi năm khi tham gia hội chợ đều thấy xu hướng mới của thị trường.
Nếu như cách đây 7 năm, gian hàng phô mai, sản phẩm từ sữa hữu cơ, các sản phẩm từ thịt hữu cơ (chân lợn ủ muối, xúc xích…) chiếm tới 30% các gian hàng hữu cơ châu Âu thì 2 năm gần đây tôi thấy sản phẩm planbase (có nguồn gốc từ thực vật) đã lên ngôi thấy rõ, khi các sản phẩm sữa hạt được lên kệ và bơ đậu phộng, bơ lạc thay thế bơ động vật…
Từ tỉ lệ các gian hàng tại Biofach cũng như thăm quan các chuỗi siêu thị hữu cơ lớn ở Đức như Rewe, Edeka… tôi nhận thấy rằng các sản phẩm từ ngũ cốc và các loại hạt được ưu tiên tiêu dùng hơn. Có lẽ vì tính an toàn của các sản phẩm này nên ngày càng nhiều người ăn kiêng, hay có chế độ dinh dưỡng được cho là lành mạnh hơn cho cơ thể thì các sản phẩm này đã dần trở thành xu hướng tiêu dùng mới, đặc biệt thuận lợi cho các sản phẩm từ Việt Nam như: điều, dừa, quế, hồi, chè, gia vị, gạo…
Với thị trường Mỹ, doanh số bán lẻ sản phẩm hữu cơ năm 2023 cho thấy các sản phẩm thực phẩm chức năng, bổ sung dinh dưỡng hữu cơ đang lên ngôi, tuy nhiên dẫn đầu tiêu dùng sản phẩm hữu cơ vẫn là rau, quả tươi… Như vậy, thị trường hữu cơ Thế giới rõ ràng đang có sự dịch chuyển và theo hướng có lợi cho các sản phẩm là lợi thế của Việt Nam, các sản phẩm hữu cơ xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn là sản phẩm từ trồng trọt và thủy sản (tôm). Đây là cơ hội mở rộng vùng sản xuất để tiến vào các thị trường hữu cơ cao cấp hơn cho Việt Nam.
Đoàn Việt Nam có 7 năm liên tiếp tham dự hội chợ Biofach (Đức). |
PV: Tháng 3/2024 vừa qua, VOAA cùng 19 doanh nghiệp, hợp tác xã hữu cơ, giảng viên đại học, chuyên gia nông nghiệp của Việt Nam tham gia chuyến tham quan học tập hữu cơ tại Úc do Mekong Organics tổ chức, đặc biệt là có các hoạt động xúc tiến thương mại Hữu cơ Việt – Úc. Với một thị trường rộng lớn như xứ sở chuột túi, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội như thế nào để từ đó mở rộng ra các thị trường khác, thưa bà?
Bà Đặng Thị Bích Hường: Với thị trường Úc, tôi thấy có sự khác biệt đôi chút với châu Âu, có lẽ Úc có thói quen tiêu dùng gần với Mỹ hơn. Tôi nhận thấy cơ hội cho các sản phẩm hữu cơ Việt Nam tại Úc là rất lớn, vì Việt Nam và Úc hiện nay là đối tác chiến lược toàn diện. Việc nâng cấp mối quan hệ giữa 02 quốc gia giúp tăng cường tin cậy chính trị, hiểu biết lẫn nhau; sẽ tạo động lực tích cực, tạo điều kiện huy động và tập trung nguồn lực cho các ưu tiên hợp tác đặc biệt về kinh tế, khoa học-công nghệ, phát triển bền vững…
Mặc dù Úc là quốc gia có diện tích đất nông nghiệp hữu cơ lớn nhất thế giới, tuy nhiên do điều kiện tự nhiên cũng như lịch sử canh tác cũng như các quy định ngặt nghèo trong quản lý nước ở Úc, mỗi năm các vùng canh tác hữu cơ ở Úc chỉ khai thác khoảng 30-50% diện tích đất, diện tích đất còn lại đa phần sẽ cho đất nghỉ hoặc chăn thả gia súc luân phiên.
Việc nhập khẩu các sản phẩm tươi sang Úc (trái cây, rau tươi,…) phải áp dụng các quy định rất ngặt nghèo do quy định kiểm soát an ninh sinh học của Úc, tuy nhiên hàng rào này nới lỏng hơn với các sản phẩm đóng hộp, đã qua chế biến… Chính vì vậy cơ hội rộng mở hơn cho các sản phẩm hữu cơ Việt Nam là các sản phẩm đã qua chế biến, sẵn sàng để ăn (ready to eat), như đồ ăn vặt hữu cơ (snack), bún, phở ăn liền hữu cơ, trái cây, củ quả hữu cơ sấy, nước uống hữu cơ đóng lon/chai (nước dừa, nước mía, nước năng lượng, các loại trà…), gia vị hữu cơ tiện lợi (gói gia vị phở, gia vị ướp gà…).
Như vậy tôi thấy rằng sau đại dịch Covid-19 thế giới đã thay đổi, thói quen tiêu dùng thay đổi, mặc dù kinh tế khó khăn hơn nhưng vẫn có những cơ hội mới, tiềm năng cho sản phẩm hữu cơ Việt Nam cả ở Mỹ, châu Âu, Úc, thậm chí Trung Quốc… Chúng tôi là Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam và chúng tôi nhìn thấy những cơ hội mới, sẵn sàng kết nối, đồng hành cùng doanh nghiệp hữu cơ Việt Nam để đưa tàu ra biển lớn, mong rằng thời gian sắp tới sẽ tập hợp được nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã hữu cơ hơn nữa để cùng nhau đưa sản phẩm hữu cơ Việt Nam ra thị trường quốc tế.
PV: Trân trọng cảm ơn bà!