![]() |
| Cá chim vây vàng là loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. |
Sản lượng lớn, chất lượng đồng đều
Những năm gần đây, nghề nuôi biển được xác định là một trong những hướng phát triển kinh tế quan trọng, góp phần khai thác hiệu quả tiềm năng vùng ven biển và hải đảo của nước ta.
Cá chim vây vàng là loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, được ưa chuộng nhờ tốc độ tăng trưởng nhanh, khả năng thích nghi tốt với môi trường nuôi lồng ở vùng biển và ven biển. Thịt cá thơm ngon, giàu dinh dưỡng, là mặt hàng được thị trường trong nước và quốc tế, đặc biệt là Trung Quốc, Hồng Kông và nhiều nước Đông Nam Á đánh giá cao.
Tuy nhiên trước đây, việc phát triển nuôi thương phẩm cá chim vây vàng còn gặp không ít khó khăn, nhất là sự phụ thuộc vào nguồn giống nhập khẩu hoặc sản xuất nhỏ lẻ trong nước. Nguồn giống này thường không đảm bảo chất lượng, dễ mang mầm bệnh, dẫn đến hiệu quả nuôi thấp và tiềm ẩn rủi ro về môi trường sinh thái.
Từ yêu cầu đặt ra, Phân viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản Bắc Trung Bộ triển khai dự án “Xây dựng mô hình sản xuất giống cá chim vây vàng (Trachinotus falcatus) quy mô công nghiệp, sạch bệnh phục vụ phát triển bền vững nghề nuôi biển” tại Nghệ An và Khánh Hòa, nhằm nâng cao năng lực chủ động nguồn giống, cải thiện chất lượng đàn giống và đáp ứng nhu cầu phát triển nuôi biển.
![]() |
| Mô hình sản xuất giống cá chim vây vàng quy mô công nghiệp đã chứng minh tính khả thi và hiệu quả. |
Năm 2025, hai mô hình đặt tại hộ ông Phạm Văn Tiến ở xã Quỳnh Anh, tỉnh Nghệ An và hộ ông Hà Văn Chung ở phường Bắc Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Cả hai cơ sở có đàn cá bố mẹ đảm bảo khả năng sinh sản, được tuyển chọn kỹ lưỡng, cùng hệ thống ao, bể và trang thiết bị đáp ứng yêu cầu kỹ thuật sản xuất giống ở quy mô công nghiệp.
Các vật tư then chốt như thức ăn nuôi vỗ, kích dục tố, thức ăn cho cá bột và cá giống, chất làm giàu dinh dưỡng, chlorine và bộ test môi trường,... được chuẩn bị và cung cấp kịp thời, đúng tiến độ. Nhờ đó, quá trình nuôi vỗ, kích thích sinh sản và ương nuôi được triển khai thuận lợi, đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật, góp phần ổn định chất lượng đàn cá giống.
Sau 2 tháng nuôi vỗ tích cực, 44 cặp cá bố mẹ, tức 22 cặp ở mỗi mô hình, đều sinh sản thành công. Quá trình ương diễn ra trong điều kiện nước được kiểm soát chặt chẽ về nhiệt độ, độ mặn và oxy hòa tan. Kết quả tại hai điểm mô hình đạt những chỉ tiêu rất khả quan.
Sau 60 ngày ương, điểm Nghệ An thu được khoảng 507.000 con giống, kích cỡ trung bình từ 5 đến 7 cm mỗi con; tỷ lệ sống đạt 22,1 phần trăm từ giai đoạn cá bột lên cá hương và 81,5 phần trăm từ giai đoạn cá hương lên cá giống; tỷ lệ dị hình chỉ 1 phần trăm.
Tại Khánh Hòa, sản lượng đạt khoảng 514.000 con, kích cỡ tương đương; tỷ lệ sống đạt 22,2 phần trăm ở giai đoạn cá bột lên cá hương và 82,3 phần trăm ở giai đoạn cá hương lên cá giống; tỷ lệ dị hình cũng chỉ 1 phần trăm.
| Ông Hà Văn Chung (phường Bắc Nha Trang, Khánh Hoà) có hàng chục bể cá. Ông Chung cho biết, ông gắn bó với nghề ương nuôi giống thủy sản gần 20 năm qua. Ban đầu, ông làm thuê cho các hộ ương giống, sau đó ra mở riêng, chuyên ương nuôi, cung cấp giống cá bớp, cá mú, cá chẽm và cung cấp giống cá chim trong gần 10 năm qua.
Ông tham gia dự án với 57 bể ương, 22 cặp cá bố mẹ đạt chuẩn. Sau nhiều tháng áp dụng quy trình, đến nay, mô hình đã thu về những kết quả rất khả quan. Cá bố mẹ nuôi ngoài biển, trứng được thu về ấp nở. Qua tính toán, các chỉ số về sinh trưởng, hao hụt… của cá con đều nằm trong ngưỡng cho phép. Sau 50 - 60 ngày ương nuôi, cá giống đạt kích cỡ xuất bán (khoảng 5cm/con). Với 22 cặp bố mẹ, mỗi năm, ông Chung thu về khoảng 1,5 triệu con cá giống. Với giá bán trung bình khoảng 3.500 đồng/con, sau khi trừ chi phí, ông thu được khoảng 1 tỷ đồng. |
Kết quả xét nghiệm cho thấy toàn bộ mẫu cá âm tính với bệnh hoại tử thần kinh VNN, Vibrio spp. và ký sinh trùng, khẳng định quy trình đáp ứng yêu cầu về vệ sinh và an toàn dịch bệnh, đủ điều kiện cung cấp giống cho nuôi thương phẩm ở quy mô lớn.
Hiệu quả kỹ thuật và kinh tế, định hướng nhân rộng
Hai mô hình nêu trên đạt lợi nhuận từ 910 đến 938,8 triệu đồng, tương ứng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu khoảng 35,9 đến 36,5%, cao hơn khoảng 15% so với sản xuất giống truyền thống.
Việc ứng dụng quy trình sản xuất giống quy mô công nghiệp, kiểm soát dịch bệnh nghiêm ngặt giúp giảm rủi ro, tỷ lệ dị hình duy trì ở mức 1% so với khoảng 3% đối với cách làm truyền thống, kích cỡ cá giống đồng đều, tạo thuận lợi khi chuyển sang giai đoạn ương và nuôi thương phẩm.
Không chỉ mang lại hiệu quả bước đầu, những con cá chim vây vàng được ương nuôi từ "Mô hình sản xuất giống cá chim vây vàng quy mô công nghiệp, sạch bệnh phục vụ phát triển bền vững nghề nuôi biển" có đủ các điều kiện để được cấp “giấy khai sinh”, truy xuất nguồn gốc. Đây là yêu cầu, đòi hỏi gần như bắt buộc trong các quy định hiện hành, cũng đang là vấn đề không ít cơ sở ương nuôi giống chưa đạt được.
Bên cạnh đó, việc kiểm soát chặt chẽ an toàn dịch bệnh trong sản xuất giống góp phần quan trọng trong việc ngăn ngừa lây lan mầm bệnh ra môi trường, bảo đảm an toàn sinh học vùng nuôi. Đây cũng là tiền đề quan trọng để phát triển chuỗi sản xuất giống, nuôi thương phẩm, tiêu thụ sản phẩm bền vững trong tương lai.
| Kỹ sư Tăng Thị Thảo - Phân viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ, chủ nhiệm dự án cho biết: Mô hình góp phần giải quyết việc chủ động nguồn giống chất lượng, giảm lệ thuộc vào thị trường tự do, hạn chế rủi ro dịch bệnh. Việc chủ động con giống sạch bệnh còn tạo điều kiện cho các hộ nuôi trồng thủy sản yên tâm đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập và bảo vệ nguồn lợi tự nhiên.
Trong thời gian tới, quy trình tiếp tục được hoàn thiện, trong đó có sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, sản xuất giống và nuôi thương phẩm, tiến tới xây dựng chuỗi giá trị khép kín cho cá chim vây vàng - loài cá biển giàu tiềm năng xuất khẩu. |
Trên cơ sở kết quả đạt được, Phân viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản Bắc Trung Bộ đã phối hợp với Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp Khánh Hòa và Trung tâm Khuyến nông Nghệ An tổ chức tập huấn và chuyển giao kỹ thuật về chọn lọc cá bố mẹ, nuôi vỗ, kích thích sinh sản, ương cá bột và quản lý môi trường nước cho nông dân.
Trong năm 2025, mô hình sẽ được nhân rộng cho các ngư dân và tổ chức hội nghị sơ kết để ngư dân, nhà khoa học, doanh nghiệp cùng trao đổi, thảo luận và định hướng liên kết, phối hợp phát triển quy trình nuôi cá chim từ khâu cung cấp giống, nuôi và cung ứng cho thị trường trong thời gian tới.
Mô hình sản xuất giống cá chim vây vàng quy mô công nghiệp đã chứng minh tính khả thi và hiệu quả. Sản lượng vượt kế hoạch, chất lượng đảm bảo, lợi nhuận cao, tác động lan tỏa rộng. Đây là bước đi thiết thực, phù hợp với định hướng thúc đẩy nuôi biển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, góp phần đưa nghề nuôi biển Việt Nam phát triển bền vững.
Thời tiết diễn biến phức tạp đe dọa năng suất nuôi thủy sản. Các địa phương đang nỗ lực bảo vệ mùa vụ bằng nhiều ... |
Người nuôi trồng thủy sản Quảng Ngãi đang khởi đầu năm mới Ất Tỵ 2025 với niềm vui "trúng đậm" nhờ cá bớp được mùa, ... |
Huyện Kim Thành, Hải Dương phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản ven sông nhờ khai thác hiệu quả lợi thế tự nhiên và đầu ... |