![]() |
| Cây mè ra hoa |
Trước bối cảnh biến đổi khí hậu gây hạn hán liên tục, cây mè (vừng) đang trở thành lựa chọn hàng đầu cho nông dân vùng Duyên hải miền Trung trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Mè không chỉ là cây chịu hạn tốt, tiết kiệm nước tưới mà còn mang lại thu nhập cao.
Thực tế sản xuất cho thấy, các giống mè hiện có như mè đen Bình Thuận phục tráng, ADB1, NA2... dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Theo TS Hồ Huy Cường, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (ASISOV), năng suất mè trung bình hiện chỉ đạt 0,86 tấn/ha, thấp hơn nhiều so với tiềm năng, đồng thời khả năng chống chịu sâu bệnh và hàm lượng dầu chưa cao.Để giải quyết vấn đề này, ASISOV đã nghiên cứu và chọn tạo thành công hai giống mè mới là BĐ.01 và HLVĐ.78 trong khuôn khổ một đề tài cấp Bộ. Cả hai giống đều cho năng suất trên 1,5 tấn/ha và hàm lượng dầu trên 53%, đồng thời có khả năng chống chịu tốt các bệnh hại chính. Cụ thể:
- Giống mè BĐ.01: có năng suất đạt trên 15 tạ/ha; hàm lượng dầu đạt trên 53%; thời gian sinh trưởng từ 76 - 83 ngày.Giống mè BĐ.01 có kiểu sinh trưởng vô hạn, phân cành khỏe. Hạt màu vàng, khối lượng 1.000 hạt lớn (trên 3 gram). Chiều cao đóng quả trên 40 cm, phù hợp cho thu hoạch bằng máy và có khả năng chịu hạn tốt, nhiễm nhẹ bệnh đốm lá và héo cây, chín tập trung (7 - 11 ngày), không bị tách quả và chống đổ ngã tốt.
- Giống mè HLVĐ.78: có săng suất đạt từ 15,1 - 16 tạ/ha; hàm lượng dầu: Đạt trên 53%; thời gian sinh trưởng: Từ 78 - 80 ngày. Giống mè HLVĐ.78 có kiểu sinh trưởng hữu hạn. Hạt màu đen, vỏ mịn, quả có 8 hàng hạt. Chiều cao đóng quả trên 40 cm, phù hợp cơ giới hóa và có ưu điểm là chịu hạn tốt, nhiễm nhẹ bệnh đốm lá và héo cây, chín rất tập trung (6 - 8 ngày), không bị tách quả và chống đổ ngã tốt.
Hiện nay, hai giống mè này đang được nhân rộng ra sản xuất tại nhiều địa phương thuộc các vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long.
Để canh tác giống mè BĐ.01 đạt hiệu quả cao, bà con nên gieo trồng trong vụ Hè Thu tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, với thời gian gieo từ tháng 4-5 và thu hoạch vào tháng 7-8. Giống này phát triển tốt trên các chân đất thoát nước tốt như đất phù sa và đất xám. Trước khi gieo, đất cần được cày sâu 25 cm, bừa kỹ cho tơi xốp, sau đó lên luống cao 20 cm, rộng 1 m và tạo rãnh 30 cm để thoát nước. Lượng giống gieo từ 4 - 6 kg/ha, kết hợp bón lót phân chuồng, lân và vôi bột. Trong quá trình sinh trưởng, cần tưới nước 4 lần vào các giai đoạn then chốt: bắt đầu ra hoa (25 ngày), đậu trái (40 ngày), vào chắc (55 ngày) và bắt đầu chín (70 ngày). Khoảng 10 ngày trước khi thu hoạch, cần phun chế phẩm Ethephon nồng độ 0,015% để điều hòa sinh trưởng.
Đối với giống mè HLVĐ.78, quy trình canh tác có thể áp dụng cho vụ Hè Thu tại Duyên hải Nam Trung Bộ hoặc vụ Xuân Hè tại Đồng bằng sông Cửu Long (gieo tháng 2, thu hoạch tháng 4-5). Kỹ thuật làm đất có sự khác biệt tùy thuộc vào loại đất: trên chân đất lúa thì không cần cày bừa, chỉ cần giữ gốc rạ 3 cm, dọn cỏ và đào mương thoát nước; còn trên chân đất nhẹ như đất cát, đất xám thì cần làm đất kỹ tương tự giống BĐ.01 (cày sâu 25 cm và lên luống). Tương tự như giống BĐ.01, bà con cần đảm bảo tưới nước đủ 4 lần vào các thời điểm quan trọng (25, 40, 55, và 70 ngày sau gieo) và phun Ethephon (0,015%) khoảng 10 ngày trước khi thu hoạch để cây chín đều, cho năng suất tối ưu.