![]() |
Các đại biểu tham dự Hội thảo "Phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam". Ảnh: Thanh Trà |
Còn nhiều khó khăn trong phát triển chuỗi nông nghiệp hữu cơ
Phát biểu tại Hội thảo, ông Phạm Văn Duy – Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường cho biết: Hiện nay, nông nghiệp hữu cơ đang dần trở thành xu thế toàn cầu, là trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững, đặc biệt trong bối cảnh người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sức khỏe và môi trường. Tại Việt Nam, dù đã có những chính sách bước đầu và mô hình sản xuất hữu cơ đạt hiệu quả, song thực tế cho thấy lĩnh vực này vẫn còn phát triển chậm, phân tán và chưa tương xứng với tiềm năng.
Tính đến nay, diện tích canh tác hữu cơ hiện đạt gần 175 nghìn hecta, chiếm 1,41% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp; giá trị xuất khẩu nông sản hữu cơ chỉ đạt khoảng 20 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,46% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản - một con số khiêm tốn so với lợi thế sẵn có. Ngoài ra, nông nghiệp hữu cơ cũng đã bước đầu hình thành các hợp tác xã, doanh nghiệp tiên phong đầu tư và định hướng thị trường rõ ràng.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, ông Phạm Văn Duy cũng cho rằng sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ còn thiếu đồng đều giữa các vùng miền, chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ chưa hoàn chỉnh, trong khi cơ chế kiểm soát chất lượng và chứng nhận còn thiếu nhất quán.
Theo ông Phạm Văn Duy, để mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả của ngành nông nghiệp hữu cơ cần có một không gian đối thoại thực chất giữa các bên liên quan, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, chia sẻ mô hình tốt, và quan trọng nhất là thống nhất cách tiếp cận theo chuỗi giá trị hữu cơ.
![]() |
Đại diện Mục Đồng Farm phát biểu tại Hội thảo |
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Trương Xuân Sinh, đại diện Trung tâm Kiểm nghiệm kiểm chứng và Dịch vụ chất lượng (RETAQ) thuộc Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cũng nhận định: Phát triển nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam có tiềm năng lớn. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu đa dạng, đất đai phong phú cùng hệ sinh thái sản phẩm phong phú như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, chè, trái cây nhiệt đới, thủy sản…, Việt Nam có thể định vị thương hiệu quốc gia về nông nghiệp hữu cơ trên bản đồ thế giới.
Tuy nhiên, theo ông Trương Xuân Sinh, thực tế sản xuất nông nghiệp hữu cơ vẫn còn gặp nhiều thách thức như sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; kỹ thuật và trình độ canh tác chưa đáp ứng yêu cầu; chi phí sản xuất cao trong khi đầu ra chưa ổn định; các chính sách hỗ trợ còn phân tán, thiếu đồng bộ và chưa đủ mạnh để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư dài hạn.
Đại diện cho Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOAA), bà Từ Thị Tuyết Nhung cho rằng, mặc dù Việt Nam đã có quy chuẩn về phân bón, nhưng quy chuẩn đó là dành cho đầu vào SX nông nghiệp nói chung. Trong quy chuẩn hàm lượng Cd (Cadimi là kim loại nặng) cho phép từ 5 -12 mg trong phân bón của Việt Nam, nhưng trong sản xuất hữu cơ chỉ cho phép tối đa là 1.5 mg. Vì thế không thể đưa các sản phẩm này vào sản xuất hữu cơ mà rất cần một Hội đồng đánh giá các đầu vào sản xuất để giúp nông dân dễ dàng tìm kiếm và lựa chọn đầu vào một cách minh bạch. Đặc biệt, theo bà Nhung, về việc chuyển đổi, khác với hướng hữu cơ đang bị lạm dụng. Chuyển đổi là nhà sản xuất nhận được một văn bản chính thức công nhận thời gian bắt đầu chuyển đổi và khi đó sẽ dừng toàn bộ hóa chất để áp dụng tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ. Hướng hữu cơ, nông dân vẫn dùng hóa chất dù có giảm.
![]() |
Mô hình trồng bí hữu cơ ở huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. |
Thúc đẩy phát triển liên kết chuỗi – bài học từ Đan Mạch
Tại hội thảo, các chuyên gia đến từ Đan Mạch - quốc gia được đánh giá là hình mẫu trong phát triển nông nghiệp hữu cơ đã chia sẻ: Từ năm 1987, Đan Mạch đã ban hành luật riêng về sản xuất hữu cơ, trở thành nước đầu tiên trên thế giới làm điều này. Tới nay, khoảng 12% diện tích đất nông nghiệp của Đan Mạch canh tác theo phương pháp hữu cơ và người tiêu dùng tại đây đặc biệt ưa chuộng thực phẩm hữu cơ.
Để có được kết quả như vậy thì một trong những yếu tố thành công then chốt là áp dụng tiêu chuẩn hữu cơ một cách xuyên suốt trong toàn bộ chuỗi giá trị - từ nông trại đến bàn ăn. Sản phẩm chỉ được cấp nhãn hữu cơ khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, đồng thời trải qua hệ thống kiểm soát chặt chẽ, bao gồm kiểm tra định kỳ, đột xuất từ cơ quan chức năng địa phương. Từ năm 2009, Đan Mạch còn mở rộng đối tượng dán nhãn hữu cơ cho cả bếp ăn công cộng như trường học, nhà hàng, giúp người dân yên tâm lựa chọn thực phẩm sạch ngay cả ngoài gia đình.
Theo đại diện của Đan Mạch, việc tổ chức sản xuất theo quy mô lớn và đồng bộ còn giúp giảm đáng kể chênh lệch giá giữa thực phẩm hữu cơ và phi hữu cơ. Do đó, tại các siêu thị bình dân ở Đan Mạch, người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận thực phẩm hữu cơ với giá hợp lý, tạo ra thị trường bền vững và sức cầu ổn định.
Bài học lớn từ Đan Mạch đó là sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả bên trong chuỗi giá trị, cụ thể: Nhà nước xây dựng luật và kiểm soát chặt chẽ, doanh nghiệp đầu tư sản xuất và phát triển thị trường, nông dân được đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật, người tiêu dùng được tuyên truyền nâng cao nhận thức. Mô hình này không chỉ thúc đẩy tiêu dùng nội địa mà còn giúp Đan Mạch trở thành nước xuất khẩu thực phẩm hữu cơ có uy tín trên thế giới.
![]() |
Các Đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo |
Tại Hội thảo, nhiều chuyên gia đều có chung ý kiến rằng, đối với Việt Nam, để nông nghiệp hữu cơ phát triển đúng hướng và xứng tầm, chúng ta cần có chiến lược tổng thể cấp quốc gia, với trọng tâm là quy hoạch vùng sản xuất hữu cơ phù hợp từng vùng sinh thái; hoàn thiện khung pháp lý, bộ tiêu chí thống nhất và minh bạch; tăng cường đầu tư cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; và quan trọng nhất là phát triển chuỗi liên kết giữa nông dân-doanh nghiệp-thị trường.
Việc gắn sản xuất hữu cơ với xây dựng thương hiệu quốc gia, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn và du lịch sinh thái… sẽ giúp tăng giá trị sản phẩm và tạo động lực lan tỏa trong cộng đồng sản xuất. Đồng thời, ngành nông nghiệp cần đẩy mạnh số hóa thông tin sản xuất, truy xuất nguồn gốc, nâng cao chất lượng hệ thống chứng nhận và kiểm tra, tối ưu hóa chi phí để doanh nghiệp và người dân dễ tiếp cận hơn.
Và đặc biệt, phát triển nông nghiệp hữu cơ không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành nông nghiệp mà cần sự phối hợp chặt chẽ của toàn xã hội để tạo nên thay đổi căn bản trong cách nghĩ, cách làm và cách tiêu dùng - vì một nền nông nghiệp xanh, bền vững và hội nhập quốc tế.