![]() |
Hình ảnh bản đồ Việt Nam được xếp từ hàng nghìn chiếc nón lá tại cổng chào Tràng An, thành phố Hoa Lư. |
Phóng viên: Ông có thể chia sẻ về các giải pháp, chính sách giúp ngành nông nghiệp địa phương vẫn duy trì được đà tăng trưởng ổn định, tiếp tục khẳng định vai trò là “trụ đỡ” của nền kinh tế, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa tạo sinh kế, việc làm và thu nhập ổn định cho người dân, góp phần quan trọng vào sự phát triển của tỉnh bất chấp sự ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai bất thường thời gian qua?
![]() |
Ông Trần Anh Dũng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình. |
Ông Trần Anh Dũng: Những năm gần đây, mặc dù chịu nhiều tác động bất lợi của đại dịch Covid-19, thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu, nhưng nông nghiệp Ninh Bình vẫn giữ vững đà tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2020 - 2024 đạt bình quân trên 3,2%/năm, giá trị sản xuất bình quân đạt trên 130 triệu đồng/ha canh tác. Toàn tỉnh đã hình thành trên 15 vùng sản xuất tập trung đối với cây trồng chủ lực như lúa chất lượng cao, rau an toàn, cây ăn quả đặc sản với quy mô hàng trăm hecta/ vùng. Đến nay, Ninh Bình có trên 980 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, trong đó 153 sản phẩm đạt 4 sao, 3 sản phẩm đạt 5 sao góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản địa phương. Tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu làm đất, gieo cấy và thu hoạch lúa đạt trên 90%, giúp tiết kiệm chi phí và giảm sức lao động cho nông dân.
Để đạt được những kết quả này, tỉnh đã tập trung thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp:
Giải pháp về tuyên truyền, nâng cao nhận thức: Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, nâng cao nhận thức của nông dân về sản xuất an toàn, hữu cơ, sản xuất gắn với thị trường và bảo vệ môi trường.
Giải pháp về khoa học - kỹ thuật và chuyển đổi số: Ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đưa các giống cây, con mới năng suất, chất lượng cao vào sản xuất đại trà. Phát triển mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao; đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất. Ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm.
Giải pháp về cơ chế, chính sách: Thực hiện các chính sách hỗ trợ giống, vật tư, khoa học kỹ thuật cho nông dân; hỗ trợ tín dụng, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Ban hành các chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã nông nghiệp, kinh tế trang trại; chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu, chứng nhận chất lượng và xúc tiến thương mại sản phẩm nông nghiệp. Lồng ghép nguồn lực từ các chương trình, dự án như xây dựng nông thôn mới, chương trình OCOP, hỗ trợ phát triển vùng sản xuất tập trung.
Giải pháp về tổ chức sản xuất, liên kết chuỗi giá trị: Hình thành liên kết chặt chẽ giữa nông dân – hợp tác xã – doanh nghiệp – nhà khoa học – nhà quản lý. Xây dựng các chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản bền vững; kết nối với các kênh phân phối hiện đại, siêu thị, thương mại điện tử.
Giải pháp gắn nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới và du lịch: Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp trải nghiệm, gắn với phát triển du lịch của tỉnh. Hình thành các mô hình nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu, vừa là nơi sản xuất vừa là điểm đến du lịch cộng đồng, góp phần nâng cao thu nhập và tạo việc làm tại chỗ cho người dân.
Chính nhờ sự vào sự đồng bộ, quyết liệt với nhiều giải pháp cụ thể như vậy, nông nghiệp Ninh Bình đã và đang khẳng định vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế tỉnh, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa tạo sinh kế, việc làm và thu nhập ổn định cho người dân, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của tỉnh trong thời gian tới.
![]() |
Các đại biểu thực hiện nghi lễ cắt băng khai mạc Hội chợ Công thương khu vực Đồng bằng sông Hồng - Ninh Bình năm 2025. |
Phóng viên: Thưa ông, theo Đề án 885 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030, căn cứ chủ trương này tỉnh Ninh Bình hiện nay (UBND các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam cũ) đã ban hành nhiều chính sách nhằm hỗ trợ khuyến khích người dân và các tổ chức phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Ông có thể chia sẻ thêm về những thành tựu địa phương đã đạt được trong thời gian qua?
Ông Trần Anh Dũng: Thực hiện Đề án 885 của Chính phủ, tỉnh Ninh Bình đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ, trong đó có Nghị quyết 32/2022/NQ-HĐND, Đề án phát triển kinh tế nông nghiệp tỉnh giai đoạn 2022-2025, và Kế hoạch 166/KHUBND về an toàn thực phẩm. Nhờ đó, thời gian qua địa phương đã đạt được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận:
Diện tích sản xuất hữu cơ (đã chứng nhận): năm 2024 đạt 25,9 ha, tập trung chủ yếu ở nhóm cây dược liệu (sắn dây, nghệ, trà hoa vàng, sâm Cúc Phương, giảo cổ lam, cà gai leo, cỏ ngọt, kim ngân, tía tô...).
Diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ: khoảng 4.900 ha lúa chất lượng cao và trên 762 ha rau an toàn; diện tích canh tác lúa giảm phát thải khí nhà kính khoảng 6000 ha các mô hình này áp dụng phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học và từng bước hình thành chuỗi liên kết giá trị.
Mô hình và chứng nhận hữu cơ:
Giai đoạn 2020-2024, Ninh Bình đã xây dựng 06 mô hình trồng trọt hữu cơ và có 08 mô hình được cấp chứng nhận hữu cơ theo TCVN 11041, tập trung vào rau, quả và dược liệu.
Ngoài ra một số sản phẩm đã được chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế, tiêu biểu là vùng nuôi ngao Rạng Đông - Kim Sơn với diện tích 1389 ha đạt chứng nhận quốc tế ASC – vùng thứ 2 trên thế giới có được chứng nhận này. Một số trang trại đã áp dụng chăn nuôi theo hướng hữu cơ, thay thế kháng sinh bằng thảo dược, sử dụng thức ăn phối trộn tự nhiên. Tuy nhiên đến nay, chưa có cơ sở chăn nuôi nào được chứng nhận hữu cơ chính thức theo TCVN. Trong thủy sản, nhiều mô hình nuôi cá – lúa, tôm – lúa, rươi – lúa đã được hình thành với quy mô vài chục ha, sản lượng hàng chục tấn/năm, bước đầu theo phương pháp hữu cơ.
Đánh giá chung: Có thể nói, các kết quả trên đã góp phần thay đổi nhận thức của người dân, từ sản xuất tự phát sang sản xuất gắn với thị trường và tiêu chuẩn chất lượng, đồng thời mở ra những cơ hội quảng bá sản phẩm đặc sản Ninh Bình ra thị trường trong và ngoài nước.
Đánh giá về tiềm năng, lợi thế của tỉnh Ninh Bình (sau sáp nhập): Về đất đai, diện tích sản xuất: Sau sáp nhập, quy mô diện tích đất nông nghiệp của tỉnh mở rộng đáng kể, bao gồm cả vùng đồng bằng ven biển, vùng bán sơn địa và vùng trung du miền núi. Đây là lợi thế lớn để tổ chức quy hoạch vùng sản xuất tập trung hữu cơ cho cả lúa gạo, cây rau màu, cây ăn quả và dược liệu.
Riêng đồng bằng ven biển Nam Định – Ninh Bình có diện tích bãi bồi, nuôi thủy sản mặn lợ rộng hàng chục nghìn ha, rất phù hợp phát triển nuôi trồng thủy sản hữu cơ (ngao, tôm, cua, cá bống bớp, cá đối, cáy...).
Vùng Hà Nam có truyền thống cây ăn quả (chuối, nhãn, bưởi), rau màu và chăn nuôi bò sữa, bò thịt, dê, thuận lợi để phát triển nông nghiệp hữu cơ gắn với chế biến.
![]() |
Ninh Bình hội tụ đầy đủ hệ sinh thái nông nghiệp đồng bằng, ven biển, trung du và rừng núi (rừng Cúc Phương, rừng đặc dụng Hoa Lư, vùng núi đá vôi Tràng An – Tam Cốc). |
Hệ sinh thái đa dạng: Khu vực này hội tụ đầy đủ hệ sinh thái nông nghiệp đồng bằng, ven biển, trung du và rừng núi (rừng Cúc Phương, rừng đặc dụng Hoa Lư, vùng núi đá vôi Tràng An – Tam Cốc). Đây là lợi thế hiếm có để phát triển nông nghiệp hữu cơ gắn với bảo tồn đa dạng sinh học và du lịch sinh thái.
Đặc biệt, vùng biển Kim Sơn – Hải Hậu – Giao Thủy nằm trong Khu Dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng, là vùng trọng điểm để phát triển thủy sản hữu cơ và nông nghiệp sinh thái.
Có nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc hữu và lợi thế như: Lúa gạo đặc sản: Gạo Kim Sơn (Ninh Bình), gạo tám xoan (Nam Định), gạo nếp cái hoa vàng (Hà Nam). Sản phẩm dược liệu và rau màu: vùng dược liệu Cúc Phương, rau Gia Viễn (Ninh Bình), rau Trác Văn (Hà Nam), rau Nghĩa Hưng (Nam Định). Chăn nuôi đặc sản: dê núi Ninh Bình, bò sữa Hà Nam, vịt biển Nam Định, gà ri lai, lợn bản địa. Thủy sản: ngao Kim Sơn (đã được cấp chứng nhận ASC quốc tế), cá đồng, tôm sú – tôm càng xanh – cua biển vùng ven biển Nam Định và Ninh Bình.
Bên cạnh đó không thể không kể đến điều kiện kinh tế – xã hội của tỉnh với Dân cư đông, có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, lực lượng lao động dồi dào. Hệ thống giao thông thuận lợi: cao tốc Bắc - Nam, quốc lộ 1A, đường ven biển, cảng biển Ninh Cơ, cảng Ninh Phúc, tạo điều kiện thuận lợi cho logistics nông sản hữu cơ và kết nối thị trường Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Có các cơ sở chế biến lớn (như Công ty cổ phần chế biến thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, PepsiCo Foods Việt Nam…), góp phần tạo chuỗi giá trị nông sản hữu cơ khép kín từ sản xuất - chế biến tiêu thụ.
Như vậy, nếu chỉ so với thành tựu đã đạt được (25,9 ha sản xuất hữu cơ được chứng nhận; khoảng 5.000 ha sản xuất lúa theo tiêu chuẩn hữu cơ; một số mô hình rau, dược liệu, thủy sản hữu cơ), thì rõ ràng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng rất lớn của tỉnh Ninh Bình mới sau sáp nhập. Dư địa để mở rộng các vùng sản xuất tập trung hữu cơ, phát triển chăn nuôi - thủy sản hữu cơ, xây dựng thương hiệu gắn với du lịch sinh thái và xuất khẩu còn rất lớn.
Phóng viên: Thưa ông, trong quá trình triển khai Đề án 885, các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp hữu cơ do địa phương ban hành, Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình, Trung tâm khuyến nông tỉnh, tham gia hỗ trợ, xây dựng mô hình sản xuất, tập huấn cho bà con nông dân. Ông có thể đánh giá về hiệu quả của các tổ chức hội nói trên. Trong thời gian tới, địa phương cần làm gì để nâng cao vai trò của các nhà quản lý, các tổ chức hội nhằm đào tạo đội ngũ nông dân thông minh, có thể làm chủ máy móc, ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp nói chung, sản xuất nông nghiệp hữu cơ nói riêng?
Ông Trần Anh Dũng: Trong thời gian qua, việc tổ chức thực hiện sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại Ninh Bình đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành. Trên cơ sở Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa, đồng thời huy động sự tham gia của các tổ chức hội, đoàn thể và cộng đồng doanh nghiệp.
Sở Nông nghiệp và PTNT trước kia nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường đóng vai trò nòng cốt trong tham mưu cơ chế, chính sách, hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức tập huấn, xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất hữu cơ ở nhiều địa phương. Các tổ chức đoàn thể xã hội như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên phối hợp tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên tham gia sản xuất hữu cơ, nâng cao nhận thức cộng đồng. Các đơn vị sự nghiệp công lập như trung tâm khuyến nông, trung tâm dịch vụ nông nghiệp huyện trực tiếp chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn nông dân áp dụng quy trình canh tác hữu cơ, từ khâu giống, phân bón, thuốc sinh học đến quy trình giám sát, chứng nhận.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp và hợp tác xã đã tham gia ngày càng tích cực, đầu tư vào vùng nguyên liệu, ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm, góp phần hình thành các chuỗi liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ. Đây chính là yếu tố quan trọng để sản phẩm nông nghiệp hữu cơ có thị trường ổn định, nâng cao giá trị.
Mặc dù còn nhiều khó khăn về diện tích, thị trường,… nhưng kết quả bước đầu cho thấy diện tích, sản lượng nông sản hữu cơ và hữu cơ chuyển đổi trên địa bàn đã tăng, một số sản phẩm đặc trưng được chứng nhận và tham gia chương trình OCOP. Hệ thống chính sách hỗ trợ sản xuất hữu cơ như hỗ trợ giống, phân bón, chứng nhận hữu cơ, xây dựng mô hình trình diễn đã phát huy tác dụng, tạo niềm tin cho nông dân và hợp tác xã.
![]() |
Kết hợp nông nghiệp với du lịch trải nghiệm, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị và vị thế của nông sản Ninh Bình trên thị trường trong và ngoài nước. |
Như vậy có thể khẳng định rằng các cấp, các ngành tại Ninh Bình đã chủ động, tích cực, đồng bộ trong việc triển khai sản xuất nông nghiệp hữu cơ và thực hiện Đề án 885. Đây là nền tảng quan trọng để thời gian tới tỉnh tiếp tục mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu sản phẩm hữu cơ gắn với phát triển du lịch sinh thái, góp phần đưa nông nghiệp Ninh Bình phát triển theo hướng bền vững và đa giá trị.
Phóng viên: Thưa ông, Hội nghị Hữu cơ Châu Á lần thứ 8 (OAC 2025) với chủ đề “Hữu cơ vì một tương lai tốt đẹp hơn” do Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam (VOAA) phối hợp cùng UBND tỉnh Ninh Bình tổ chức từ ngày 17-19/9/2025, sẽ thu hút khoảng hơn 300 đại biểu là chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp đến từ 33 quốc gia, vùng lãnh thổ Châu Á đây được coi là cơ hội quảng bá hình ảnh Ninh Bình nói chung, ngành nông nghiệp tích hợp đa giá trị, đa dạng hoá các sản phẩm du lịch của địa phương. Ông có thể “bật mí” kế hoạch sử dụng triệt để cơ hội “vàng” này để giới thiệu quảng bá hình ảnh Ninh Bình đến bạn bè quốc tế?
Ông Trần Anh Dũng: Hội nghị Hữu cơ Châu Á lần thứ 8 tại Ninh Bình sẽ diễn ra với nhiều hoạt động phong phú, mỗi hoạt động đều góp phần quảng bá và tạo lợi ích thiết thực cho địa phương.
Thứ nhất, các phiên hội nghị, tọa đàm chính thức có sự tham gia của chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp từ 33 quốc gia sẽ là diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm, xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ, mở ra cơ hội hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ cho nông nghiệp Ninh Bình.
Thứ hai, hội chợ thương mại và không gian trưng bày sản phẩm OCOP, nông sản hữu cơ là nơi giới thiệu trực tiếp sản phẩm đặc trưng của tỉnh, từ gạo, rau màu, dược liệu đến chè hoa vàng… giúp quảng bá thương hiệu, kết nối với hệ thống phân phối, mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
![]() |
Diện tích sản xuất hữu cơ (đã chứng nhận) tỉnh Ninh Bình: năm 2024 đạt 25,9 ha, tập trung chủ yếu ở nhóm cây dược liệu (sắn dây, nghệ, trà hoa vàng, sâm Cúc Phương, giảo cổ lam, cà gai leo, cỏ ngọt, kim ngân, tía tô...). |
Thứ ba, ngoài các các phiên hội nghị, các chương trình tham quan mô hình sản xuất hữu cơ tại địa phương gắn với di sản Tràng An, Tam Cốc, công viên Trà Hoa Vàng vừa quảng bá hình ảnh vùng đất “nông nghiệp xanh - du lịch xanh”, vừa khẳng định sự gắn kết giữa sản xuất hữu cơ với bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và phát triển kinh tế du lịch cộng đồng.
Ngoài ra, các hoạt động giao lưu văn hóa, chương trình nghệ thuật sẽ lan tỏa hình ảnh một Ninh Bình thân thiện, mến khách, tạo ấn tượng sâu sắc với bạn bè quốc tế, từ đó nâng cao sức hút cho sản phẩm, cho thương hiệu nông sản hữu cơ địa phương.
Có thể nói, sự cộng hưởng của tất cả các hoạt động này sẽ giúp Ninh Bình không chỉ quảng bá mạnh mẽ hình ảnh, thương hiệu nông nghiệp hữu cơ mà còn mở ra cơ hội kết nối thị trường, thu hút đầu tư, đưa nông nghiệp tỉnh nhà phát triển theo hướng đa giá trị, bền vững và hội nhập quốc tế.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông./.