Thứ năm 23/01/2025 18:03Thứ năm 23/01/2025 18:03 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Phát triển sản xuất các loài nhuyễn thể, rong biển còn gặp nhiều khó khăn

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Hiện nay chất lượng giống thấp, bị suy giảm; mật độ nuôi ngày càng gia tăng dẫn tới phá vỡ quy hoạch nuôi và hiện tượng ngao chết hàng loạt, chất lượng môi trường nuôi suy giảm do ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Thị trường tiêu thụ, giá bán các sản phẩm nhuyễn thể không ổn định. Do ngành trồng rong biển chưa được quy hoạch, thiếu đồng bộ nên sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa xây dựng được chuỗi liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; người trồng rong chủ yếu bán sản phẩm thô. Công tác nghiên cứu bệnh và môi trường nuôi chưa theo kịp với đòi hỏi thực tế sản xuất, thậm chí một số bệnh chưa có biện pháp điều trị. Công nghệ thu hoạch, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch cũ nên hiệu quả thấp, hao hụt và chất lượng sản phẩm chưa bảo đảm khiến việc tiêu thụ gặp khó khăn.
nguồn giống cho nuôi thương phẩm ngao vẫn còn dựa vào tự nhiên ở một số vùng sản xuất nên thiếu tính chủ động về chất lượng và số lượng - Ảnh minh họa.
Nguồn giống cho nuôi thương phẩm ngao vẫn còn dựa vào tự nhiên ở một số vùng sản xuất nên thiếu tính chủ động về chất lượng và số lượng - Ảnh minh họa.

Theo báo cáo từ Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), Việt Nam đã xuất khẩu nhuyễn thể sang nhiều thị trường trên thế giới. Nếu năm 2023, giá trị kim ngạch xuất khẩu nhuyễn thể có vỏ giảm 12% so với cùng kỳ (126 triệu USD7 thì chỉ trong 11 tháng đầu năm 2024 kim ngạch này đã tăng 67% so với cùng kỳ với 195,3 triệu USD. Các đối tượng xuất khẩu chủ yếu là ngao/ nghêu, hàu, sò, vẹm. 10 tỉnh có sản lượng động vật thân mềm xuất khẩu nhiều nhất cả nước bao gồm Thanh Hoá, Bến Tre, Nam Định, Bình Thuận, Thái Bình, Hải Phòng, Sóc Trăng, Kiên Giang, Quảng Ninh, Tiền Giang, chiếm 97% kim ngạch.

Hiện có 36 công ty Việt Nam có sản phẩm nghêu xuất khẩu. Top 3 công ty lớn nhất gồm Công ty Cổ phần XNK Thủy sản Thanh Hóa (HASUVIMEX) chiếm 24% tỷ trọng xuất khẩu, công ty Thủy sản Lenger Việt Nam chiếm gần 19% và

Công ty TNHH Minh Đăng chiếm gần 13%. Đa số các nhà máy chế biến nhuyễn thể hai mảnh vỏ xuất khẩu đều được trang bị công nghệ và thiết bị hiện đại, đáp ứng tốt các tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững.

Trong số các mặt hàng nhuyễn thể hai mảnh vỏ, hàu là sản phẩm có tăng trưởng xuất khẩu đột phá trong năm 2023, với mức tăng 56% đạt trên 14 triệu USD, chủ yếu là hàu tươi, ướp lạnh. Trong đó riêng thị trường Đài Loan tiêu thụ trên 77% hàu xuất khẩu của Việt Nam với giá trị gần 11 triệu USD, tăng 26% so với năm 2022. Ngoài ra Việt Nam còn xuất khẩu hàu tươi ướp lạnh sang Lào, Campuchia, Nhật Bản...

Đối với rong biển, giá xuất khẩu mỗi kg rong biển từ Việt Nam đã có sự biến động đáng kể trong 10 năm qua. Năm 2013, giá là 3,72 USD/kg, tăng lên 13,46 đô la USD/kg vào năm 2014. Sau đó là mức đỉnh điểm là 20,71 USD/kg vào năm 2015. Tuy nhiên, giá đã giảm mạnh xuống còn 2,99 USD/kg vào năm 2016 và tiếp tục xuống còn 1,90 USD/kg vào năm 20178. Đến năm 2024, giá bán dao động từ 4,46 - 11,31 USD/kg.

Theo dữ liệu Xuất khẩu Việt Nam của Volza, Việt Nam đã xuất khẩu 3.563 lô hàng rong biển từ tháng 3 năm 2023 đến tháng 2 năm 2024 (TTM). Những lô hàng xuất khẩu này được thực hiện bởi 737 Nhà xuất khẩu Việt Nam tới 1.169 người mua, đánh dấu tốc độ tăng trưởng 32% so với 12 tháng trước đó. Trong giai đoạn này, chỉ riêng trong tháng 2 năm 2024, 244 lô hàng rong biển xuất khẩu đã được thực hiện từ Việt Nam (tăng 33% so với cùng kỳ năm 2023).

Một số doanh nghiệp lớn đã tham gia sản xuất và chế biến rong biển, một số doanh nghiệp trong nước cũng đã liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài trồng và chế biến rong biển xuất khẩu đi Nhật Bản, Hàn Quốc, tuy nhiên nhìn chung công nghệ chế biến sâu rong biển chưa phát triển, chưa so sánh được với các sản phẩm chế biến sâu của Hàn Quốc, Nhật Bản.

Ngành thủy sản Quảng Bình : Vướng mắc trong quá trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ Ngành thủy sản Quảng Bình : Vướng mắc trong quá trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Quảng Bình là một tỉnh tiếp giáp với biển, rất thuận lợi và có thế mạnh trong việc phát triển nuôi trồng, chế biến và ...

Việt Nam phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 70 tỷ USD đến năm 2030 Việt Nam phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 70 tỷ USD đến năm 2030

Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 70 tỷ USD, với sự công nhận ...

Việt Nam tăng cường bảo vệ và khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản đến năm 2050 Việt Nam tăng cường bảo vệ và khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản đến năm 2050

Chính phủ vừa phê duyệt kế hoạch bảo vệ và khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản đến năm 2050, tập trung mở rộng ...

Bên cạnh những kết quá đạt được cũng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như nguồn giống cho nuôi thương phẩm ngao vẫn còn dựa vào tự nhiên ở một số vùng sản xuất nên thiếu tính chủ động về chất lượng và số lượng. Nguồn giống tự nhiên chỉ có ở một số vùng nhất định nhưng thiếu sự quản lý, khai thác hợp lý nên đang có nguy cơ bị cạn kiệt. Giống ngao, hàu có dấu hiệu thoái hóa, dẫn chậm lớn, tỉ lệ thịt/vỏ thấp dẫn đến giảm sản lượng thu hoạch và tiêu thụ gặp rất khó khăn. Sản xuất giống chỉ tập trung ở một vài địa phương. Các tỉnh nhập con giống gặp khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng. Nhiều cơ sở sản xuất giống chưa được cấp giấy Chứng nhận cơ sở sản xuất.

Cũng như các loài thuỷ sản khác, cây giống là chìa khoá để nuôi trồng rong biển thành công và bền vững. Chất lượng cây giống càng trở nên quan trọng hơn trong điều kiện môi trường canh tác bị suy giảm như nhiệt độ nước biển tăng. Tuy nhiên, chất lượng giống rong đang ngày một suy giảm do đa số giống rong được tạo thành bằng phương pháp nhân giống sinh dưỡng từ rong trưởng thành. Việc nhân giống sinh dưỡng lặp đi lặp lại dẫn đến tình trạng thoá hoá giống, làm giảm khả năng tăng trưởng của rong, giảm chất lượng rong khi thu hoạch và rong dễ bị nhiễm bệnh. Ngoài ra, sự thoái hoá chất lượng giống của rong có thể thúc đẩy sự ra đời của các loài hoặc kiểu gen không phải bản địa, gây rủi ro cho đa dạng sinh học và an toàn sinh học.

Mật độ nuôi ngày càng gia tăng dẫn tới phá vỡ quy hoạch nuôi và hiện tượng ngao chết hàng loạt; vị trí một số điểm nuôi hiện đang nằm chồng lấn quy hoạch phát triển du lịch, công nghiệp, gây ảnh hưởng cho sự phát triển; quy hoạch một số tỉnh không còn diện tích cho rong biển. Suy giảm chất lượng môi trường nuôi do ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.

Độ đục, mức dinh dưỡng, sự nở hoa của thực vật phù du, biến động nhiệt độ, độ mặn đều là những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển thành công của vùng trồng rong biển. Do đó, chất lượng nước suy giảm ở nhiều vùng ven biển do nước thải sinh hoạt, nước thải nông nghiệp và công nghiệp từ đất liền cũng là mối đe dọa đối với nghề trồng rong biển hiện tại và tương lai, do làm tăng độ đục, ô nhiễm bởi kim loại nặng và các chất ô nhiễm hữu cơ, tác động tiêu cực đến sự phát triển của rong biển và có thể dẫn đến nguy cơ mất an toàn thực phẩm do dư lượng kim loại nặng tồn dư trong rong (do rong biển có khả năng hấp thụ kim loại nặng cao).

Nhiệt độ nước biển và mực nước biển tăng do biến đổi khí hậu cũng làm giảm sự phát triển của các loài rong biển. Ngoài ra, tần suất xuất hiện các cơn bão cùng với lượng mưa lớn cũng tác động không nhỏ đến hoạt động trồng rong biển. Nguy cơ phơi nhiễm với một số mối nguy an toàn thực phẩm nhất định từ rong biển có thể trở nên trầm trọng hơn do biến đổi khí hậu (Từ năm 2015 đến nay, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, rong bị gãy dập; tình trạng cá dìa ăn rong tại các khu vực trồng rong ven bờ nên diện tích trồng và sản lượng rong ngày càng giảm rõ rệt tại Ninh Thuận).

Các vùng nuôi nhuyễn thể ở bờ biển nước ta hàng năm thường xuyên chịu ảnh hưởng bão gió, áp thấp nhiệt đới với tần suất cao; vùng biển phía Bắc chịu tác động của mùa đông lạnh kéo dài, nên đã gây bất lợi cho việc phát triển nuôi ngao. Hiện tượng ngao chết hàng loạt thường xảy ra từ tháng 2 đến tháng 5 hàng năm, những tháng khác trong năm vẫn có hiện tượng này nhưng ít xảy ra hơn. Sự thay đổi về nhiệt độ, độ mặn, chất lượng nước kém là những nguyên nhân chủ yếu gây ra hiện tượng ngao chết hàng loạt ở nhiều địa phương trong thời gian qua.

Về thị trường tiêu thụ: Thị trường tiêu thụ của sản phẩm ngao nuôi và giá cả không ổn định. Nhu cầu thị trường còn rất lớn cả tiêu thụ nội địa và xuất khẩu; quản lý điều kiện vệ sinh và an toàn thực phẩm còn nhiều bất cập. Công nghệ chế biến đơn giản, chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường nhập khẩu; nhiều vùng thu hoạch chưa được cấp chứng nhận đủ điều kiện xuất khẩu. Nhiều nơi, nhiều vùng sản xuất sản phẩm không đảm bảo kích cỡ, tỉ lệ thịt/vỏ thấp do con giống có dấu hiệu thoái hóa nguồn gen, dẫn đến việc tiêu thụ gặp rất khó khăn.

Đối với rong biển, mặc dù rong biển có giá trị dinh dưỡng cao, mang lại nhiều lợi ích đối với sức khoẻ nhưng tỷ lệ người dân sử dụng rong biển như một nguồn thực phẩm hàng ngày trong bữa ăn chưa nhiều. Niềm tin của người tiêu dùng dành cho các sản phẩm trong nước chưa cao, cùng với tâm lý “sính ngoại” cũng là một trong những trở ngại lớn để ngành rong biển phát huy tiềm năng sẵn có trong tương lai. Hoạt động truyền thông đến người tiêu dùng trong và ngoài nước chưa được quan tâm đúng mức. Thêm vào đó, sản phẩm chế biến của rong biển còn đơn giản, hạn chế nên chưa hấp dẫn được thị trường tiêu thụ nội địa.

Do ngành trồng rong biển chưa được quy hoạch, thiếu đồng bộ nên sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa xây dựng được chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, Người trồng rong chủ yếu bán sản phẩm thô sơ cho thương lái và rong biển qua nhiều bên trung gian mới đến được với doanh nghiệp chế biến và người tiêu dùng. Do đó, chi phí sản phẩm bị tăng cao do chi phí trung gian.

Bên cạnh đó, giá rong biển còn thấp và thường xuyên biến động, giá xuất khẩu bấp bênh do biến động tỉ giá hối đoái và sự bất ổn của các thị trường cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý và thu nhập của các thành phần tham gia chuỗi sản xuất rong biển, đặc biệt là người nông dân. Công tác nghiên cứu bệnh và môi trường nuôi còn chưa theo kịp với đòi hỏi thực tế sản xuất, thậm chí một số bệnh chưa có biện pháp điều trị. Cảnh báo môi trường dịch bệnh đã có, song do nguồn lực còn hạn chế nên tại một số thời điểm chưa kịp thời, dẫn đến vẫn còn hiện tượng nghêu chết hàng loạt ở nhiều nơi.

Công nghệ thu hoạch, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch: nhiều nơi, nhiều vùng nuôi thu hoạch thủ công, chưa áp dụng được công nghệ mới nên hiệu quả thấp, hao hụt và chất lượng sản phẩm không bảo đảm, dẫn đến việc tiêu thụ gặp nhiều khó khăn.

Phát triển sản xuất các loài nhuyễn thể, rong biển còn gặp nhiều khó khăn
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cho rằng, nhuyễn thể và rong biển là hai lĩnh vực có tiềm năng to lớn để phát triển trong thời gian tới.

Phát biểu tại hội nghị "Phát triển sản xuất nhuyễn thể và rong biển" diễn ra sáng 26/12/2024, tại Nam Định, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến khẳng định, ngành thủy sản năm 2024 dù gặp nhiều khó khăn nhưng đã đạt được những thành tựu rất quan trọng: sản lượng đạt 9,6 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 10 tỷ USD. Riêng đối với nhuyễn thể, sản lượng nuôi đã đạt gần 480.000 tấn, rong biển hơn 150.000 tấn.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, bên cạnh việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và tạo sinh kế cho ngư dân ven biển nói chung, nuôi nhuyễn thể và trồng rong biển còn đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu áp lực khai thác nguồn lợi thủy sản, hồi sinh nguồn lợi và giảm xung đột trong quá trình bảo vệ nguồn lợi thủy sản, góp phần vào thực hiện chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam. Theo đó, "đẩy mạnh phát triển nhuyễn thể và rong biển là phù hợp với xu thế xanh hiện nay", lãnh đạo Bộ NN-PTNT nói.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, nhuyễn thể và rong biển là hai ngành hàng có tiềm năng to lớn để phát triển trong thời gian tới, đã có "đường dẫn" ra thị trường nước ngoài, hệ sinh thái rất đầy đủ, quản lý Nhà nước, khoa học công nghệ, doanh nghiệp, người nuôi, tuy nhiên sự liên kết chưa chặt chẽ lắm.

Chính vì vậy, thời gian tới, Cục Thủy sản ngoài việc xây dựng cơ chế chính sách, cần kết nối các đơn vị liên quan như: Cơ quan quản lý Nhà nước, viện, trường, doanh nghiệp và người nuôi... Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường tăng cường công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường... Các viện, trường chú trọng đến khoa học công nghệ, làm sao để bắt kịp nhu cầu thực tiễn; doanh nghiệp đổi mới công nghệ, cập nhật kiến thức quản lý, thông tin thị trường; địa phương triển khai các quy hoạch vùng, tỉnh liên quan đến thủy sản...

Đồng thời, tiếp tục giải quyết bài toán con giống; chú trọng đến công tác thú y, phòng chống dịch bệnh gắn với an toàn sinh học; mở rộng hợp tác quốc tế; nghiên cứu các phương thức nuôi phù hợp...

Bài liên quan

Thái Thụy (Thái Bình) phấn đấu đạt tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản hơn 5.500 tỷ đồng

Thái Thụy (Thái Bình) phấn đấu đạt tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản hơn 5.500 tỷ đồng

UBND huyện Thái Thụy (Thái Bình) tổ chức hội nghị tổng kết ngành nông nghiệp năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025.
Quảng Ninh: Kiên quyết xử lý, phòng chống khai thác thủy sản trái phép

Quảng Ninh: Kiên quyết xử lý, phòng chống khai thác thủy sản trái phép

Lực lượng chức năng các địa phương có biển của Quảng Ninh đã tăng cường kiểm tra, kiểm soát, kiên quyết xử lý, ngăn chặn các hành vi khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU).
Việt Nam phù hợp cho nhiều loài nhuyễn thể, rong biển sinh sản và phát triển

Việt Nam phù hợp cho nhiều loài nhuyễn thể, rong biển sinh sản và phát triển

Việt Nam có 3200km bờ biển, 112 cửa sông, 660.000 ha bãi triều, vùng đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2 cùng nhiều eo vịnh, đầm phá với nền đáy đa dạng. Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới với các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn của vùng ven biển Việt Nam phù hợp cho nhiều loài nhuyễn thể, rong biển sinh sản và phát triển.
Thái Bình: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trong năm 2025

Thái Bình: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trong năm 2025

Tỉnh Thái Bình phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trong năm 2025 tăng 3,6% so với năm 2024.
Năm 2024 Việt Nam thành cường quốc xuất khẩu thủy sản

Năm 2024 Việt Nam thành cường quốc xuất khẩu thủy sản

Năm 2024, Việt Nam đã khẳng định vị thế là một trong những cường quốc xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới, đứng thứ ba chỉ sau Trung Quốc và Na Uy. Đây là một thành tựu đáng tự hào, minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của ngành thủy sản Việt Nam, đóng góp quan trọng vào nền kinh tế quốc gia.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Ngày xuân bàn về Bonsai: Nghệ thuật thu nhỏ thế giới

Ngày xuân bàn về Bonsai: Nghệ thuật thu nhỏ thế giới

Bonsai, một từ tiếng Nhật, dịch nôm na là "trồng cây trong chậu cạn". Nhưng bonsai không chỉ đơn thuần là việc trồng cây trong chậu. Đó là cả một nghệ thuật, một quá trình tỉ mỉ kết hợp giữa kỹ thuật trồng trọt, thẩm mỹ và triết lý, nhằm thu nhỏ những cây cổ thụ vào trong một không gian hạn hẹp, tái hiện lại vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ.
Nâng cao vai trò của khuyến nông trong phát triển nông nghiệp hữu cơ

Nâng cao vai trò của khuyến nông trong phát triển nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ là một trong những hướng đi bền vững của nông nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Hà Tĩnh nói riêng. Thời gian qua, ngành nông nghiệp Hà Tĩnh đã chủ động lồng ghép các chính sách, chương trình để xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp theo mô hình hữu cơ, tuần hoàn…
Văn minh lúa nước: Nền tảng Văn hóa và Kinh tế của Việt Nam

Văn minh lúa nước: Nền tảng Văn hóa và Kinh tế của Việt Nam

Văn minh lúa nước, một hình thái văn minh nông nghiệp đặc trưng, đã hình thành và phát triển mạnh mẽ ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Không chỉ đơn thuần là việc trồng trọt và thu hoạch lúa gạo, văn minh lúa nước đã kiến tạo nên một hệ thống văn hóa, kinh tế và xã hội sâu rộng, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử.
Đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp: Nền tảng an ninh lương thực và phát triển bền vững

Đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp: Nền tảng an ninh lương thực và phát triển bền vững

Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và an ninh lương thực của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, dân số gia tăng và nhu cầu tiêu dùng ngày càng khắt khe, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp trở thành yếu tố sống còn, không chỉ giúp nâng cao năng suất và chất lượng nông sản mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Trung Nguyên: Hành trình kiến tạo thương hiệu và văn hóa cà phê Việt

Trung Nguyên: Hành trình kiến tạo thương hiệu và văn hóa cà phê Việt

Trung Nguyên không chỉ là một thương hiệu cà phê, mà còn là một câu chuyện về khát vọng, sự sáng tạo và nỗ lực không ngừng nghỉ để đưa cà phê Việt Nam ra thế giới. Được thành lập vào năm 1996 tại Buôn Ma Thuột, Trung Nguyên đã nhanh chóng trở thành một biểu tượng, góp phần định hình và phát triển văn hóa cà phê Việt Nam.
Vai trò của kinh tế tập thể trong giai đoạn hiện nay

Vai trò của kinh tế tập thể trong giai đoạn hiện nay

Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bên cạnh kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể đóng một vai trò quan trọng, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với bản chất là hình thức kinh tế dựa trên sự hợp tác, liên kết tự nguyện của các thành viên, kinh tế tập thể không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho các thành viên mà còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường và xây dựng nông thôn mới.
Biển Đông và kinh tế biển Việt Nam

Biển Đông và kinh tế biển Việt Nam

Biển Đông, một vùng biển nằm ở rìa tây Thái Bình Dương, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị vô cùng quan trọng đối với nhiều quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Với bờ biển dài hơn 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn và nguồn tài nguyên phong phú, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng và văn hóa của Việt Nam.
Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai: Những thăng trầm đầu tư vào nông nghiệp

Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai: Những thăng trầm đầu tư vào nông nghiệp

Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai được biết đến rộng rãi với các hoạt động kinh doanh đa dạng, từ bất động sản, khoáng sản đến thủy điện. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ khoảng năm 2008 đến 2015, nông nghiệp đã trở thành một trong những lĩnh vực đầu tư trọng điểm của tập đoàn, đặc biệt là cây cao su, mía đường và sau đó là cây ăn trái. Hành trình nông nghiệp của Hoàng Anh Gia Lai đã trải qua nhiều thăng trầm, từ những kỳ vọng lớn lao đến những khó khăn và thách thức không nhỏ.
Phân bón hữu cơ: Giải pháp phát triển nông nghiệp xanh, bền vững

Phân bón hữu cơ: Giải pháp phát triển nông nghiệp xanh, bền vững

Tình trạng lạm dụng phân bón vô cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đất đai và môi trường, phân bón hữu cơ đang nổi lên như một giải pháp thiết yếu, góp phần phục hồi đất, tăng năng suất cây trồng và đảm bảo phát triển nông nghiệp xanh, bền vững.
THACO AGRI: Hành trình kiến tạo nền nông nghiệp bền vững

THACO AGRI: Hành trình kiến tạo nền nông nghiệp bền vững

Trong bối cảnh nền nông nghiệp Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ hướng đến sự bền vững và chất lượng, Công ty Cổ phần Nông nghiệp Trường Hải (THACO AGRI) nổi lên như một điển hình tiên phong, kiến tạo những giá trị mới cho ngành nông nghiệp. Được thành lập vào năm 2019, THACO AGRI là thành viên của Tập đoàn THACO, kế thừa tiềm lực mạnh mẽ về tài chính, công nghệ và quản trị, đồng thời mang trong mình khát vọng xây dựng nền nông nghiệp sạch, hiệu quả và bền vững.
Phân vi sinh Bokashi: Tương lai cho nông nghiệp bền vững tại Việt Nam

Phân vi sinh Bokashi: Tương lai cho nông nghiệp bền vững tại Việt Nam

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn biến nhanh chóng và khó nhận định, nhu cầu về việc tìm kiếm và ứng dụng các giải pháp thân thiện với môi trường ngày càng trở nên cấp thiết. Phân vi sinh Bokashi, phương pháp ủ phân hữu cơ có nguồn gốc từ Nhật Bản, được các chuyên gia đánh giá là một giải pháp đầy tiềm năng, đặc biệt phù hợp với điều kiện và thực tiễn tại Việt Nam. Phương pháp này không chỉ giúp xử lý hiệu quả nguồn rác thải hữu cơ dồi dào mà còn tạo ra nguồn phân bón giàu dinh dưỡng, góp phần cải tạo đất, nâng cao năng suất cây trồng và hướng tới một nền nông nghiệp tuần hoàn.
Nông nghiệp hữu cơ ở Lạng Sơn: Tiềm năng và thách thức trên con đường phát triển

Nông nghiệp hữu cơ ở Lạng Sơn: Tiềm năng và thách thức trên con đường phát triển

Lạng Sơn, một tỉnh miền núi phía Bắc, nổi tiếng với những cánh rừng xanh ngát và khí hậu ôn hòa, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Trong bối cảnh nhu cầu về thực phẩm sạch và an toàn ngày càng tăng, nông nghiệp hữu cơ đang trở thành xu hướng tất yếu và Lạng Sơn cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Tuy nhiên, việc phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Lạng Sơn vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết cũng như đối mặt với không ít thách thức.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2024 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính