![]() |
Hành trình nông nghiệp hội nhập quốc tế - Ảnh minh họa. |
PV: Ông đánh giá thực trạng đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế đối với nông nghiệp hữu cơ Việt Nam hiện nay như thế nào?
TSKH. Hà Phúc Mịch: Nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam hiện đang có những bước tiến tích cực. Các nỗ lực phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm hữu cơ nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế đã được triển khai. Tuy nhiên, việc thực thi các quy trình sản xuất hữu cơ còn gặp nhiều khó khăn. Một số doanh nghiệp lớn đã thành công trong việc xuất khẩu sản phẩm hữu cơ ra thị trường quốc tế, nhưng nhiều cơ sở sản xuất nhỏ và vừa vẫn đang đối mặt với các thách thức lớn. Các rào cản tài chính, công nghệ và kỹ thuật là những yếu tố chính. Quy trình chứng nhận và kiểm tra đôi khi phức tạp và tốn kém, khiến nhiều doanh nghiệp chưa đủ khả năng tham gia thị trường quốc tế. Ngoài ra, sự khác biệt giữa quy trình sản xuất trong nước và quốc tế cũng làm cản trở khả năng xuất khẩu.
PV: Việt Nam đang đối mặt với những khó khăn và thuận lợi gì trong việc hội nhập vào thị trường quốc tế với các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ? Cần những biện pháp hỗ trợ nào để tận dụng cơ hội và khắc phục các rào cản hiện tại?
TSKH. Hà Phúc Mịch: Việt Nam đang đối mặt với một số khó khăn đáng kể, bao gồm sự thiếu đồng bộ trong hệ thống chứng nhận và kiểm định sản phẩm hữu cơ. Mặc dù diện tích đất sản xuất hữu cơ đã gia tăng từ khoảng 25.000 ha năm 2010 lên 100.000 ha hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế do sự khác biệt trong tiêu chuẩn. T hiếu nguồn lực tài chính và công nghệ, cùng với chi phí chứng nhận cao, là những rào cản lớn. Thiếu thông tin và đào tạo về tiêu chuẩn quốc tế cũng hạn chế khả năng tiếp cận của nhiều doanh nghiệp.
Tuy nhiên, những thuận lợi cũng rất rõ ràng. Diện tích sản xuất hữu cơ gia tăng cho thấy tiềm năng phát triển của ngành. Vai trò của Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam (VOAA) trong việc hỗ trợ và kết nối các cá nhân, doanh nghiệp là rất quan trọng. Sự kiện Đại hội IFOAM 2024 tại Việt Nam minh chứng cho sự công nhận quốc tế đối với nỗ lực của ngành hữu cơ Việt Nam. Nhiều sản phẩm đã đạt chứng nhận quốc tế như EU Organic và USDA Organic, mở ra cơ hội xuất khẩu và nâng cao vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Để tận dụng cơ hội và khắc phục các rào cản, cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ cụ thể. Điều này bao gồm cải thiện hệ thống chứng nhận và kiểm định, tăng cường đào tạo và cung cấp thông tin về tiêu chuẩn quốc tế, cũng như hỗ trợ tài chính và công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc điều chỉnh chính sách và cơ chế hỗ trợ cũng rất quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và xuất khẩu sản phẩm hữu cơ.
![]() |
TSKH. Hà Phúc Mịch, Chủ tịch VOAA |
PV: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ Việt Nam có cần được nâng cấp để đáp ứng các yêu cầu của thị trường xuất khẩu không? Nếu có, ông đề xuất những thay đổi cụ thể nào?
TSKH. Hà Phúc Mịch: Chắc chắn là cần thiết. Khi hội nhập quốc tế, nông sản hữu cơ Việt Nam phải cạnh tranh với sản phẩm của các quốc gia có tiêu chuẩn cao và hệ thống giám sát chặt chẽ. Tiêu chuẩn Việt Nam cần được nâng cấp để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế như USDA Organic hay EU Organic, đặc biệt là về quy trình giám sát và chứng nhận. Một đề xuất cụ thể là cần áp dụng hệ thống chứng nhận độc lập và tăng cường đào tạo cho nông dân về quy trình sản xuất đạt chuẩn quốc tế.
So sánh với tiêu chuẩn quốc tế như USDA Organic (Hoa Kỳ) hay EU Organic (Liên minh châu Âu), các tiêu chuẩn của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về mục tiêu và phương pháp, nhưng cũng tồn tại những khác biệt nhất định trong việc kiểm soát chất lượng và chứng nhận sản phẩm. Các tiêu chuẩn quốc tế thường có quy trình kiểm tra nghiêm ngặt và hệ thống giám sát độc lập, đảm bảo tính minh bạch và tin cậy cho người tiêu dùng.
PV: Ông có thể chia sẻ thêm về những thách thức lớn nhất mà nông dân Việt Nam đang gặp phải khi áp dụng các tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ?
TSKH. Hà Phúc Mịch: Thách thức lớn nhất chính là chi phí cao và thiếu hụt kiến thức kỹ thuật. Canh tác hữu cơ yêu cầu sự đầu tư lớn về thời gian và chi phí, từ việc mua phân bón hữu cơ đến quản lý dịch hại bằng biện pháp sinh học. Ngoài ra, nông dân cần có kiến thức sâu rộng về kỹ thuật canh tác hữu cơ, điều mà không phải ai cũng có sẵn. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ cho sản phẩm hữu cơ chưa được phát triển đồng đều, dẫn đến tình trạng khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Mặc dù tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã được xây dựng cẩn thận, nhưng vẫn còn nhiều thách thức trong việc áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Nhiều nông dân cho rằng việc chuyển đổi từ canh tác truyền thống sang canh tác hữu cơ đòi hỏi đầu tư lớn về chi phí và thời gian. Chi phí cao cho phân bón hữu cơ và biện pháp sinh học, cùng với sự thiếu hụt về kiến thức kỹ thuật, là những rào cản chính khiến nhiều nông dân chưa mạnh dạn áp dụng tiêu chuẩn hữu cơ. T hực tế này phản ánh một thực trạng chung ở Việt Nam, nơi mà đa phần nông dân vẫn đang làm quen với mô hình nông nghiệp hữu cơ và cần có thời gian để thích nghi.
![]() |
Một số doanh nghiệp lớn đã thành công trong việc xuất khẩu sản phẩm hữu cơ ra thị trường quốc tế, nhưng nhiều cơ sở sản xuất nhỏ và vừa vẫn đang đối mặt với các thách thức lớn - Ảnh minh họa. |
"Để nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập với thị trường quốc tế, cần có những điều chỉnh cần thiết về tiêu chuẩn và chính sách. Việc cải thiện hệ thống giám sát, chứng nhận, và hỗ trợ nông dân chuyển đổi mô hình canh tác là điều cần thiết. Bên cạnh đó, sự hợp tác quốc tế trong việc học hỏi và áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và giá trị nông sản Việt Nam.” TSKH. Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam. |
PV: Trong tương lai, ông nghĩ rằng Việt Nam cần làm gì để nông sản hữu cơ của chúng ta có thể cạnh tranh mạnh mẽ hơn trên thị trường quốc tế?
TSKH. Hà Phúc Mịch: Việt Nam cần tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm hữu cơ và đảm bảo tính minh bạch trong quy trình sản xuất. Điều này đòi hỏi sự cải tiến liên tục trong việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, cũng như tăng cường hợp tác với các tổ chức chứng nhận quốc tế để đảm bảo sản phẩm đạt được sự tin cậy từ người tiêu dùng toàn cầu. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tiếp thị và xây dựng thương hiệu nông sản hữu cơ Việt Nam để tạo dựng uy tín và vị thế trên thị trường quốc tế.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ, bao gồm các chương trình hỗ trợ tài chính, đào tạo kỹ thuật, và khuyến khích áp dụng công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, mức độ hiệu quả của các chính sách này vẫn còn là vấn đề cần bàn luận.
Để nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập với thị trường quốc tế, cần có những điều chỉnh cần thiết về tiêu chuẩn và chính sách. Việc cải thiện hệ thống giám sát, chứng nhận, và hỗ trợ nông dân chuyển đổi mô hình canh tác là điều cần thiết. Bên cạnh đó, sự hợp tác quốc tế trong việc học hỏi và áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và giá trị nông sản Việt Nam.
PV: Chính sách hỗ trợ hiện nay đã đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ chưa? Nếu chưa, theo ông cần những chính sách gì thêm?
TSKH. Hà Phúc Mịch: Mặc dù Chính phủ đã có những chính sách hỗ trợ quan trọng, nhưng để thực sự thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh mẽ hơn, cần có thêm các biện pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp cho nông dân trong giai đoạn chuyển đổi. Ngoài ra, cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hữu cơ thông qua ưu đãi thuế và hỗ trợ kỹ thuật. Đào tạo và nâng cao năng lực cho nông dân cũng là một yếu tố cần được chú trọng hơn nữa.
Nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và sự gia tăng nhận thức về bảo vệ môi trường. Tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, dù đã có nhiều nỗ lực cải tiến, vẫn cần được điều chỉnh để phù hợp hơn với thực tế sản xuất và đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế. Chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, cùng với sự hợp tác giữa các bên liên quan, sẽ là chìa khóa để đưa nông sản hữu cơ Việt Nam vươn xa hơn trên bản đồ nông nghiệp thế giới.
So với các tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn Việt Nam tuy đã đáp ứng được nhiều yêu cầu cơ bản, nhưng vẫn cần có sự điều chỉnh để phù hợp hơn với yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Các tiêu chuẩn quốc tế như USDA Organic và EU Organic có quy định rõ ràng về quy trình giám sát và chứng nhận, giúp sản phẩm đạt được độ tin cậy cao trên thị trường quốc tế.
![]() |
Ảnh minh họa. |
PV: Ông có thể chia sẻ về vai trò của Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam trong việc hỗ trợ nông dân thúc đẩy phát triển thị trường cho sản phẩm hữu cơ?
TSKH. Hà Phúc Mịch: Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đóng vai trò cầu nối giữa nông dân, doanh nghiệp và Chính phủ. Chúng tôi cung cấp thông tin, đào tạo kỹ thuật, và hỗ trợ nông dân trong việc tiếp cận các nguồn lực cần thiết để áp dụng tiêu chuẩn hữu cơ. Hiệp hội cũng tích cực tham gia vào việc xây dựng và điều chỉnh các chính sách liên quan, đồng thời đẩy mạnh quảng bá và phát triển thị trường tiêu thụ cho sản phẩm hữu cơ trong và ngoài nước.
Tháng 7/2024, sau quá trình xét duyệt bởi Hội đồng khoa học Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Tiêu chuẩn Nông nghiệp hữu cơ TCCS 01:2024/VOAA đã chính thức được ban hành, thay thế tiêu chuẩn PGS Việt Nam -V3:2018, với mục đích làm rõ thêm mối quan hệ giữa các nguyên tắc chung của nông nghiệp hữu cơ với các tiêu chuẩn cụ thể nhằm giúp người sản xuất dễ dàng áp dụng và các tổ chức chứng nhận được ủy quyền sử dụng để đánh giá sự phù hợp giữa thực tiễn sản xuất với tiêu chuẩn.
Đặc biệt tháng 5 năm 2025, tiêu chuẩn hữu cơ VOAA chính thức được IFOAM công nhận. Sau hơn 3 năm làm việc liên tục, bao gồm cả giai đoạn gián đoạn do đại dịch Covid-19, bộ Tiêu chuẩn Hữu cơ VOAA đã được hội đồng khoa học gồm 07 chuyên gia đầu ngành thông qua và Hiệp hội chính thức ban hành vào ngày 17/4/2024 theo Quyết định số 18/2024/QĐ-HHNNHCVN của Hiệp hội. Tiêu chuẩn hữu cơ VOAA được xây dựng trên nguyên tắc hoàn chỉnh tiêu chuẩn PGS nhằm tương đương với quốc tế nhưng đảm bảo dễ áp dụng cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân hữu cơ, các tiêu chuẩn không thấp hơn TCVN 11041:2017/2018, có đối chiếu so sánh với các tiêu chuẩn khác như: TCVN11041:2017/2018, PGS của IFOAM, Mỹ, Canada, Naturland...
Hiện nay, Tiêu chuẩn hữu cơ VOAA sẽ thay thế tiêu chuẩn PGS Việt Nam và được áp dụng linh hoạt cho các nông dân cả trong và ngoài hệ thống PGS.
PV: Trân trọng cảm ơn ông./.