![]() |
Quang cảnh hội nghị chiều ngày 17/9. |
Hội nghị có sự tham dự của gần 600 đại biểu, trong nước và khách quốc tế từ 33 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và tổ chức phát triển nông nghiệp. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt trong quảng bá hình ảnh văn hóa, con người, nông nghiệp Việt Nam ra thế giới, thúc đẩy đầu tư xanh và giao lưu tri thức trong tiến trình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng thân thiện với môi trường.
Các phiên tại Hội nghị “Hữu cơ Châu Á lần thứ 8” cùng thảo luận, chia sẻ những nghiên cứu, đổi mới trong việc gìn giữ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống và xây dựng nền nông nghiệp bền vững. Nhiều nội dung về chính sách, thị trường, thực hành hữu cơ có liên quan tới lĩnh vực nông nghiệp nói chung và nông nghiệp hữu cơ nói riêng sẽ được diễn ra trong 3 ngày (từ ngày 17 - 19/9/2025).
Chiều ngày 17/9, tại hội nghị có sự tham gia đông đảo khách mời và các chuyên gia như: ông Konarad Hauptfleisch (Naturland), bà Từ Thị Tuyết Nhung (VOAA/PGS Việt Nam), bà Nguyễn Thị Hải Xuân (Cert Vietnam), bà Nguyễn Hằng Nga (Dace), ông Brendan Rosen, Natural Academy Philippines…
Theo các chuyên gia, việc số hóa trong chuyển giao tri thức nông nghiệp hữu cơ thì việc truyền tải thông tin không chỉ dừng lại ở việc truyền tải thông tin mà còn là đào tạo, hướng dẫn kiến thức. Phần tiếp thu kiến thức này rất tốn công sức, biến những thông tin đó thành kiến thức để giảng dạy hiệu quả mới là quan trọng.
Trao đổi tại hội nghị, bà Nguyễn Hằng Nga chia sẻ về việc đào tạo số hóa cho nông dân đòi hỏi yêu cầu năng lực cải thiện, chuyên sâu hơn thông qua sơ đồ số để làm công cụ hướng dẫn họ sử dụng app miễn phí, chuyển giao kiến thức cho họ một cách hiệu quả hơn. Nhiều người dân có điện thoại thông minh nhưng không biết làm như thế nào.
Bà Từ Thị Tuyết Nhung, UVBTV Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam (VOAA) cho biết, việc đào tạo trực tiếp cho nông dân thông qua hệ thống trực tuyến. Nông dân cũng có khả năng đào tạo nông dân qua hình thức này.
Trong khuôn khổ phiên họp hội nghị, một chuyên gia Trung Quốc chia sẻ về nền nông nghiệp hữu cơ của đất nước này, đó là việc nuôi trồng thủy sản hữu cơ như cá, sứa, cung cấp protein thực vật.
![]() |
Các chuyên gia chia sẻ về vai trò của Số hóa trong việc chuyển giao tri thức nông nghiệp hữu cơ. |
Các trang trại hữu cơ có sự kiểm soát chặt chẽ về mặt chất lượng dựa theo tiêu chuẩn của Trung Quốc, kiểm soát về hàm lượng kim loại và một số chỉ số khác. Phải bắt buộc truy xuất nguồn gốc rõ ràng, tất cả các sản phẩm đều phải được kiểm tra kỹ càng và cung cấp ra thị trường trên các nền tảng trực tuyến. Mặt hàng này đã được xuất khẩu sang Châu Âu, Nhật Bản. Khi khách hàng mua sản phẩm hữu cơ đều có giấy tờ đầy đủ. Có 7 nhóm sản phẩm thủy sản đã được đánh giá hữu cơ như cá biển, cá nước ngọt, tôm, cua….
Cũng theo vị chuyên gia này cho biết về những chính sách hỗ trợ của chính phủ Trung Quốc đối với nuôi trồng thủy sản hữu cơ dựa trên ba trụ cột chính:
Thứ nhất là lập kế hoạch chiến lược: Quy hoạch không gian biển quốc gia phân bổ các khu vực nuôi trồng thủy sản một cách khoa học, đồng thời các chương trình nuôi trồng thủy sản ngoài khơi và biển sâu giúp giảm áp lực ven biển và mở rộng năng lực nuôi trồng bền vững.
Thứ hai là nuôi trồng thủy sản hữu cơ được tích hợp vào chiến lược phục hồi nông thôn, thúc đẩy chuyển đổi xanh và carbon thấp phù hợp với việc xây dựng một cường quốc nông nghiệp.
Thứ ba là khung pháp lý được tăng cường và hệ thống truy xuất nguồn gốc kỹ thuật số (bao gồm nền tảng blockchain) đảm bảo tính minh bạch, an toàn thực phẩm và niềm tin của người tiêu dùng. Chính phủ cung cấp các quỹ đặc biệt, các khoản vay được trợ cấp và các công cụ đổi mới (ví dụ: các khoản vay sinh thái, các khoản vay thế chấp giấy phép nuôi trồng thủy sản) để giảm rủi ro đầu tư của nhà sản xuất và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sinh thái.
Theo đó, việc phát triển nuôi trồng thủy sản hữu cơ của Trung Quốc được thúc đẩy bởi: Liên minh công nghiệp-đại học-nghiên cứu giải quyết các nút thắt chính như sinh sản nhân tạo và gắn ấu trùng.
Thực hành sinh thái: Áp dụng rộng rãi hệ thống nuôi ghép thân thiện với môi trường (ví dụ: cá-nghêu, tôm-nghêu) và thúc đẩy các tiêu chuẩn thức ăn hữu cơ.
Chuyển đổi số: Hệ thống giám sát chất lượng nước dựa trên IoT tiên tiến và nền tảng truy xuất nguồn gốc blockchain đảm bảo tính minh bạch của sản phẩm và niềm tin thị trường. Đây là một nghiên cứu điển hình về nuôi trồng trai hữu cơ tại huyện Funan, An Huy, Trung Quốc, tập trung vào việc khôi phục và phát triển ngành nuôi trai sau khi suy giảm do đánh bắt quá mức và thay đổi sinh thái.
Chính quyền địa phương đã thành lập quỹ đặc biệt 20 triệu nhân dân tệ và cung cấp các khoản vay thế chấp giấy phép nuôi trồng thủy sản, với hơn 48 triệu nhân dân tệ cho 56 nhà sản xuất.
Về đột phá công nghệ: Huyện đã vượt qua các nút thắt cổ chai trong sinh sản nhân tạo và gắn ấu trùng, xây dựng một cơ sở nhân giống cấp tỉnh với công suất 120 triệu cây giống mỗi năm. Áp dụng hệ thống nuôi ghép thân thiện với môi trường ("cá-trai" và "tôm-trai"), kết hợp với giám sát chất lượng nước và truy xuất nguồn gốc blockchain, mang lại lợi ích kinh tế và sinh thái.
Thu nhập của nông dân tăng khoảng 2.000 nhân dân tệ/mẫu, liên quan đến hơn 300 hộ gia đình (35% từ các gia đình nghèo trước đây), tạo thành một chuẩn mực cho cả bảo vệ sinh thái và phục hồi nông thôn ở lưu vực sông Hoài.
Bên cạnh đó còn những thử thách và hạn chế liên quan đến sản xuất hữu cơ hoặc chứng nhận. Tiêu chuẩn và tiền chứng nhận chưa hoàn chỉnh, các vấn đề như quản lý hồ sơ không đầy đủ, xác định rủi ro không đủ, và thực hiện quy trình chứng nhận yếu kém.
Chi phí sản xuất cao so với nhận thức người tiêu dùng thấp: Chi phí tăng cao (ví dụ: thức ăn chăn nuôi +34%, lao động +18%) không tương xứng với sự sẵn lòng chi trả phí bảo hiểm hữu cơ hạn chế của người tiêu dùng. Sản xuất hữu cơ đơn lẻ không đủ, cần tích hợp mạnh mẽ hơn giữa nông nghiệp, chế biến, xây dựng thương hiệu và du lịch để tăng giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh tổng thể.
Theo chuyên gia người Trung Quốc này cho biết về các thách thức trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản hữu cơ, bao gồm: Mất cân bằng khu vực: Nuôi trồng thủy sản hữu cơ tập trung cao độ ở các tỉnh ven biển, trong khi các vùng nội địa còn lạc hậu, dẫn đến sự phát triển không đồng đều và khả năng phục hồi yếu hơn. Giám sát sau chứng nhận còn yếu, với các trường hợp không tuân thủ (5,59% trong các lô mẫu) làm suy yếu uy tín và niềm tin của người tiêu dùng.
Rào cản thị trường và thương mại: Thị trường quốc tế áp đặt các rào cản kỹ thuật và thương mại, trong khi giáo dục người tiêu dùng trong nước còn hạn chế, cản trở việc mở rộng thị trường. Áp lực sinh thái và tài nguyên: Mở rộng quy mô sản xuất đồng thời đảm bảo bảo vệ chất lượng nước và các hoạt động thân thiện với môi trường vẫn là một thách thức dài hạn. Bên cạnh đó cần tăng cường sự phối hợp giữa chính sách và ngành: Điều chỉnh các chiến lược quốc gia với việc thực hiện tại địa phương và tăng cường hợp tác giữa chính phủ, nghiên cứu và doanh nghiệp.