![]() |
Với vùng nguyên liệu cây dong riềng tập trung có diện tích lớn, thích hợp cho việc người dân sản xuất ra miến dong theo quy mô công nghiệp. |
Tạo cơ chế phát triển
Ngày 15/10/2021, Huyện ủy Na Rì (Bắc Kạn) ban hành Nghị quyết số 15-NQ/HU về phát triển nông, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, mở rộng liên kết sản xuất giai đoạn 2021 – 2025.
Theo đó, với mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp huyện phát triển toàn diện, bền vững; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, tập trung gắn với sản xuất hàng hoá có giá trị, có khả năng cạnh tranh trên thị trường; đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định và bền vững trên cơ sở tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng phát triển cây, con có giá trị kinh tế cao; đảm bảo an ninh lương thực; gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp dịch vụ, ngành nghề góp phần giải quyết việc làm nâng cao thu nhập cho nhân dân, nhất là ở các vùng khó khăn. Trong giai đoạn 2015-2020 huyện Na Rì đã quan tâm và chỉ đạo thực hiện sản xuất nông, lâm nghiệp đạt được một số kết quả tích cực như sau:
Tổng diện tích gieo trồng hằng năm bình quân 9.687 ha; trong đó cây lúa bình quân thực hiện 3.951 ha/năm, lúa chất lượng là 447 ha/năm. Tổng sản lượng lương thực 33.999 tấn/năm. Bình quân lương thực đầu người đạt 807,53 kg/người/năm.
Riêng cây dong riềng diện tích thực hiện bình quân 5 năm đạt 344 ha/năm, năng suất bình quân đạt 737 tạ/ha, sản lượng 25.353 tấn. Có 06 Hợp tác xã chế biến miến gồm: HTX Tài Hoan, HTX Việt Cường, HTX Thắm Lượng, HTX Huấn Liên, HTX Côn Minh. Sản phẩm miến được cấp giấy chứng nhận OCOP là 6 đơn vị và 01 sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Châu Âu.
Phát triển vùng trồng cây ăn quả được 808 ha (trong đó: Cam 324 ha; quýt 170 ha; Hồng không hạt 57 ha và các cây ăn quả khác 257 ha) tại các xã Kim Lư, Cường Lợi, Sơn Thành, Văn Minh, Liêm Thủy, thị trấn Yến Lạc, … Trong đó, diện tích đã được cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm gồm các HTX trồng cây ăn quả: Khuổi Nằn 2, HTX Kim Lư. Có 4 sản phẩm được cấp giấy chứng nhận OCOP.
Diện tích dược liệu trong những năm gần đây được HTX Văn Lang HT, HTX trồng và chế biến dược liệu Bảo Châu liên kết sản xuất mở rộng diện tích trồng đến nay có 110,5 ha gồm các loại cây: Thạch đen, Cà gai leo, Xạ đen, Hà thủ ô, Giảo cổ lam tại xã Văn Vũ, Văn Lang, Văn Minh, Trần Phú,…
Công tác phát triển chăn nuôi trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực, đóng góp không nhỏ vào phát triển kinh tế - xã hội chung của huyện, tổng đàn trâu, bò, ngựa hiện có 9.152 con; dê 2.457 con; lợn 18.113 con; gia cầm 336.657 con. Trong 5 năm tổng sản lượng thịt hơi (tính trên số con xuất bán, giết mổ) bình quân cả giai đoạn đạt 2.556,01 tấn/ năm, so với năm 2015 (805 tấn) tăng 2.888,32 tấn (tăng cao nhất năm 2019 là 3.693,7 tấn); đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn.
Việc ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, sự hỗ trợ của các chương trình, dự án dành cho phát triển chăn nuôi đã có sự chuyển biến tích cực từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán, tự cung, tự cấp sang chăn nuôi chuyên biệt, sản xuất hàng hóa đã thu hút một số HTX, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi như HTX Trần Phú, HTX Chi Lăng (Xuân Dương), HTX An Diệp và các nhóm hộ tại các xã Quang Phong, Đổng Xá, Sơn Thành,…Trong đó có 03 sản phẩm được cấp giấy chứng nhận OCOP (Gà thịt, lợn thịt bản địa, lạp sườn gừng đá).
Diện tích nuôi thủy sản trện địa bàn huyện là 333 ha; sản lượng trong 5 năm đạt 3.090,01 tấn (bình quân 618 tấn/năm), tăng 66,95 tấn so năm 2015; tập trung phát triển thủy sản tại các xã Kim Lư, Văn Minh, Văn Lang, Văn Vũ,… chủ yếu là các loài cá chép, rô phi đơn tính, trắm cỏ, trôi,…
Toàn huyện có 13.389,63 ha rừng trồng, trong đó diện tích trồng rừng giai đoạn 2015-2019 là 5.246,71 ha, bình quân mỗi năm trồng được 1.049,34 ha. Trong đó có khoảng 2.595,7 ha cây keo và 7.461,17 ha cây mỡ, 700 ha cây quế; hiện có 44 cơ sở (5 tổ chức, doanh nghiệp và 39 hộ kinh doanh cá thể, bao gồm cả các cơ sở hoạt động không thường xuyên) sản xuất các sản phẩm đơn giản như gỗ xẻ, ván bóc, băm dăm, đồ mộc thông thường phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại địa phương. Nhìn chung, hiệu quả hoạt động của các cơ sở chế biến gỗ và lâm sản thấp, chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ gỗ rừng trồng và lâm sản ngoài gỗ của người dân trong huyện, chưa tạo động lực cho phát triển sản xuất quy mô lớn.
Công tác phát triển kinh tế tập thể gắn với phát triển nông nghiệp nông thôn được địa phương quan tâm đầu tư hỗ trợ kịp thời, đến nay có 40 HTX (trong đó: Nông nghiệp 36 HTX; lĩnh vực khác 04 HTX) và 108 tổ hợp tác, hoạt động chủ yếu trồng dong riềng lên luống cao, trồng bí xanh thơm, trồng gừng, trồng khoai tây, chăn nuôi gà thả vườn, nuôi trâu, bò vỗ béo,... Bên cạnh đó có một số cơ sở chế biến đã gắn kết sản xuất hàng hóa với tiêu thụ sản phẩm, tạo ra sản phẩm đưa ra thị trường được người tiêu dùng biết đến như miến dong, gà thả đồi, thịt lợn đen bản địa,...
Hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện giai đoạn 2015 - 2020, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ bảy quyết nghị một số mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về phát triển nông, lâm nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 như sau:
Tập trung phát triển ngành nông nghiệp làm trọng tâm để thúc đẩy nền kinh tế của huyện; khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế tài nguyên đất đai, khí hậu, nguồn nước sạch, đa dạng sinh học. Phát triển nông, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, đáp ứng nhu cầu thị trường và phù hợp với các tiêu chuẩn hiện hành; mở rộng liên kết sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ cao và đổi mới quan hệ sản xuất, kinh doanh để nâng cao chuỗi giá trị, tăng thu nhập, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Cây dong riềng: Hoàn thiện và phát triển chuỗi giá trị sản phẩm dong riềng một cách hiệu quả, bền vững nhằm phát triển vùng nguyên liệu ổn định 300 ha (trong đó diện tích chứng nhận hữu cơ/ATTP 200 ha), sản lượng củ 23.400 tấn, đáp ứng nguyên liệu ổn định cho các cơ sở sản xuất chế biến sản phẩm tinh bột, sản phẩm miến dong phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Cây ăn quả: Phấn đấu thực hiện 700 ha, trong đó: Cây cam 400 ha (diện tích cấp chứng nhận: ATTP 240 ha, VietGap/ Hữu cơ 20 ha; diện tích được cấp mã số vùng trồng 30 ha). Cây hồng không hạt 300 ha (diện tích cấp chứng nhận: ATTP 50 ha; diện tích được cấp mã số vùng trồng 20 ha).
![]() |
Các công nhân đang đóng gói sản phẩm miến dong tại Hợp tác xã Tài Hoan ở thôn Chè Cọ, xã Côn Minh, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. |
Cây dược liệu: Phấn đấu thực hiện 200 ha (bao gồm các cây: Thạch đen, cà gai leo, xạ đen, khôi nhung, hà thủ ô, giảo cổ lam,…).
Chăn nuôi: Tổng đàn đại gia súc (trâu, bò, ngựa) phấn đấu 10.000 con; sản lượng thịt hơi xuất chuồng bình quân mỗi năm 3.000 tấn và có 04 trang trại quy mô vừa và nhỏ. Tổng đàn lợn duy trì ổn định 20.000 con/năm; số con xuất chuồng bình quân 23.000 con/năm, tương đương với sản lượng thịt lợn hơi khoảng 1.450 tấn/năm và có 06 trang trại quy mô vừa và nhỏ.
Đối với sản phẩm lâm sản (gỗ): Phấn đấu diện tích rừng trồng của toàn huyện 15.000 ha, diện tích khai thác trung bình từ 300 - 400 ha/ năm với trữ lượng khoảng 30.000-40.000 m3/năm, sau khi khai thác thì tiến hành trồng lại rừng trong đó trồng khoảng 1/3 diện tích này theo hướng kinh doanh cây gỗ lớn. Các diện tích trồng rừng tập trung nguyên liệu cho chế biến phấn đấu có 100 ha được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững hoặc chứng chỉ FSC; 50% sản lượng khai thác gỗ keo, mỡ, quế được chế biến thô tại địa phương.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
Tại Nghị quyết này cũng chỉ rõ việc cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, tạo ra sản phẩm an toàn đáp ứng nhu cầu thị trường; tăng cường liên kết sản xuất và nâng cao chuỗi giá trị để tăng thu nhập cho dân cư khu vực nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025.
Kịp thời tuyên truyền, phổ biến nội dung của Nghị quyết thông qua các phương tiện truyền thông, hội nghị, họp giao ban... đến các cơ quan, đơn vị, cơ sở, doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ nông dân trên địa bàn để tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
Thường xuyên tuyên truyền, vận động người dân thay đổi phương thức sản xuất từ quy mô nhỏ lẻ, hộ gia đình sang hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, liên kết sản xuất hình thành vùng sản xuất hàng hóa.
Củng cố, đổi mới và nâng cao hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất, quản lý trong phát triển nông lâm nghiệp: Tiếp tục hướng dẫn các cở sở, HTX, doanh nghiệp sản xuất theo chuỗi giá trị, mở rộng sản xuất liên kết, củng cố các mối liên kết theo chuỗi để đảm bảo sản xuất bền vững như xây dựng kế hoạch, phương án mở rộng các ngành nghề dịch vụ, hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt chú trọng đối với các loại sản phẩm có tiềm năng, thế mạnh của địa phương theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Khuyến khích và thu hút đầu tư tư nhân, huy động mọi nguồn lực xã hội vào phát triển nông lâm thủy sản; lồng ghép các nguồn vốn hỗ trợ người sản xuất và liên kết với các HTX, doanh nghiệp trên địa bàn phát triển vùng nguyên liệu gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ hàng hóa nông, lâm, thủy sản theo chuỗi giá trị. Tăng cường sự liên kết, tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên,…).
Về xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm: Thực hiện tốt công tác quảng bá, xúc tiến thương mại để thúc đẩy việc tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm nghiệp của huyện như: Tham gia các hội chợ, tuần lễ giới thiệu sản phẩm nông nghiệp do tỉnh và các địa phương trong và ngoài tỉnh tổ chức; tổ chức hội thi, lễ hội về các loại nông sản, tôn vinh tổ chức, cá nhân có nhiều thành tích trong sản xuất các loại nông sản có năng suất, giá trị kinh tế cao trên địa bàn huyện.
Phối hợp với các cơ quan truyền thông để tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu sản phẩm nông lâm sản của huyện; tăng cường thông tin quảng bá, giới thiệu sản phẩm nông lâm sản của địa phương tới thị trường trong nước và ngoài nước; tích họp truy xuất nguồn gốc nông, lâm sản của địa phương để nâng tầm của sản phẩm nông sản của địa phương.
Về cơ chế chính sách, thu hút đầu tư: Thu hút, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên địa bàn để thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết này. Rà soát các cơ chế, chính sách quản lý, ưu đãi, hỗ trợ phát triển nông nghiệp đã ban hành để đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời các chính sách thu hút đầu tư, khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa tập trung bảo đảm đồng bộ, thiết thực, phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của địa phương.