Vùng ven biển Việt Nam phù hợp cho nhiều loài nhuyễn thể, rong biển sinh sản và phát triển - Ảnh: Hồng Thắm. |
Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045, Thủ tướng Chính phủ đặt ra mục tiêu tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản, đa dạng hóa các đối tượng tiềm năng của Việt Nam. Trong đó, sản phẩm nhuyễn thể và rong biển là một trong đối tượng nuôi có tiềm năng, còn dư địa để phát triển. Bên cạnh đó, thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 36- NQ/TW), Quyết định 1664/QĐ-TTg ngày 04/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhuyễn thể đã và đang là sản phẩm chính trong cơ cấu sản lượng nuôi biển tại Việt Nam còn rong biển cũng là đối tượng có nhiều tiềm năng phát triển. Năm 2024, diện tích nuôi nhuyễn thể là 57 nghìn ha (tăng 5,5% so với năm 2022, chiếm khoảng 90% tỷ trọng diện tích nuôi biển), sản lượng nhuyễn thể là 432 nghìn tấn (chiếm 56% tổng sản lượng nuôi biển); diện tích trồng rong biển là 16,5 nghìn ha, sản lượng rong biển là 155 nghìn tấn.
Bên cạnh việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và tạo sinh kế cho ngư dân ven biển nói chung, nuôi nhuyễn thể và trồng rong biển còn đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu áp lực khai thác nguồn lợi thủy sản, phục hồi sinh nguồn lợi và giảm xung đột trong quá trình bảo vệ nguồn lợi thủy sản, góp phần vào thực hiện chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam, góp phần giải quyết vấn đề khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định của ngành thủy sản. Tuy nhiên, ngành nuôi nhuyễn thể và trồng rong vẫn chưa thực sự “chuyển mình” do phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như chất lượng giống, tiêu thụ sản phẩm, chất lượng môi trường nuôi, dịch bệnh.
Xu hướng ăn lành mạnh (tập trung vào sức khỏe và dinh dưỡng của món ăn), xu hướng sử dụng “thực phẩm toàn phần” (thực phẩm giàu dinh dưỡng và không chứa thành phần nhân tạo và hóa chất, cung cấp các chất dinh dưỡng thiết yếu mà cơ thể chúng ta cần để hoạt động tối ưu) và chế độ ăn thực vật của người dân cũng là lý do thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành nhuyễn thể và rong biển. Bên cạnh đó, nhu cầu ngày càng tăng đối với các chất phụ gia thực phẩm lành mạnh, có thể thay thế dầu và chất béo giàu calo trong thực phẩm chế biến cũng sẽ thúc đẩy nhu cầu hydrocolloid (agar, alginate và carrageenan). Tại thị trường Mỹ, mức tăng trưởng của Hydrocolloid dự kiến là 10,7% từ năm 2020 đến năm 2028.
Phát biểu tại hội nghị "Phát triển sản xuất nhuyễn thể và rong biển" diễn ra sáng 26/12/2024, tại Nam Định, Ông Nguyễn Văn Hữu, Phó Trưởng phòng Nuôi trồng Thủy sản, Cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), thông tin, năm 2024, diện tích nuôi nhuyễn thể cả nước là 57.000ha, sản lượng nuôi đạt 477.878 tấn, tăng 8,4% so với cùng kỳ.
Các đối tượng nhuyễn thể được nuôi phổ biến hiện nay bao gồm các loài: ngao/nghêu, ngao dầu, ngao vân, vẹm xanh, ốc hương, sò huyết, sò lông, tu hài, hàu cửa sông, hàu Thái Bình Dương, điệp, ốc nhảy...
Việt Nam đã xuất khẩu nhuyễn thể sang nhiều thị trường trên thế giới. Trong 11 tháng của năm 2024, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 195,3 triệu USD, tăng 67% so với cùng kỳ năm ngoái. Các đối tượng xuất khẩu chủ yếu là ngao/nghêu, hàu, sò, vẹm.
Với rong biển, theo nhiều nghiên cứu, diện tích có tiềm năng cho trồng rong ở Việt Nam vào khoảng 900.000ha (tương đương với sản lượng 600.000-700.000 tấn khô/năm) nhưng việc trồng rong ở Việt Nam vẫn dừng lại ở quy mô nhỏ; nhiều năm qua, diện tích trồng rong không có đột phá. Diện tích trồng rong giai đoạn 2005-2024 chỉ tăng từ 8.265ha lên 16.500ha. Sản lượng thu hoạch năm 2024 khoảng 155.000 tấn tươi.
Sìn Hồ đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản, nâng cao thu nhập cho người dân Huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đang đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản, tận dụng lợi thế mặt nước, giúp người dân nâng cao thu ... |
Nuôi theo chuẩn hữu cơ: Ngành thủy sản duyên hải miền Trung gặp khó Theo số liệu báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp, nông thôn năm 2023 và triển khai kế hoạch ... |
Cao Bằng: Phát triển nuôi trồng thủy sản hiệu quả Cao Bằng đang tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, ứng dụng công nghệ cao, góp phần nâng cao hiệu ... |
Theo báo cáo từ Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), thị trường nhuyễn thể dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) vừa phải là 4,5% trong giai đoạn dự báo từ năm 2022 đến năm 2032. Theo FMI, thị trường động vật thân mềm dự kiến sẽ tăng trưởng từ 60,72 tỷ đô la Mỹ vào năm 2021 lên 98,54 tỷ đô la Mỹ vào năm 2032. Trong khi đó, quy mô thị trường rong biển thương mại toàn cầu được định giá 16,6 tỷ USD vào năm 2020 và dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 10,8% từ năm 2021 đến năm 2028. Nhu cầu thị trường được dự đoán sẽ được thúc đẩy bởi sự phát triển công nghệ ngày càng tăng trong nuôi trồng rong biển cùng với đầu 10 tư ngày càng tăng vào các phân khúc ứng dụng, bao gồm thức ăn chăn nuôi và nông nghiệp.
Nghề trồng rong biển hiện đang nhận được sự quan tâm ngày càng tăng từ các quốc gia có thu nhập cao như một giải pháp dựa vào thiên nhiên để phát triển kinh tế, đóng góp to lớn vào các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (SDGs), SDG 14 (sinh vật thuỷ sinh), SDG13 (hành động khí hậu), SDG6 (tăng trưởng kinh tế và việc làm), SDG5 (bình đẳng giới) và Thập kỷ Khoa học Đại dương vì Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (2021 - 2030). Việc phát triển các công nghệ mới, dựa trên sinh thái, nuôi cấy bền vững sẽ đảm bảo việc làm trong tương lai cho các cộng đồng ven biển, các hệ sinh thái ven biển khỏe mạnh hơn và bảo vệ các quần thể hoang dã quan trọng.
Người dân có kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi nhuyễn thể và trồng rong biển đơn giản, chi phí thấp. Sự phát triển của công nghệ như tự động hóa, máy học và trí tuệ nhân tạo có khả năng thúc đẩy thị trường phát triển, hỗ trợ phương pháp chọn lọc giống, cũng như các hệ thống giám sát và quản lý hoặc giám sát canh tác được tối ưu hóa.
Nếu sản lượng rong biển toàn cầu sẽ đạt 500 triệu tấn vào năm 2050 theo dự báo của Ngân hàng thế giới, thì diện tích mặt nước biển canh tác chỉ là 0,5 triệu km2 (bằng 0,03% diện tích bề mặt đại dương), tiết kiệm 1 triệu km2 đất trồng trọt (bằng 6% diện tích đất trồng trọt toàn cầu), tiết kiệm 500 km3 nước ngọt (bằng 14% lượng nước ngọt mất đi trên toàn thế giới hàng năm); lượng protein sẽ cung cấp cho người và động vật là 50.000.000 tấn, ước tích giá trị 28 tỷ USD và có thể thay thế hoàn toàn dầu cá trong thức ăn chăn nuôi.
Cũng 500 triệu tấn này sẽ hấp thụ 10 triệu tấn nitơ (tương đương 30% lượng nitơ trong nước biển), 15 triệu tấn phốt pho (tương đương 33% tổng lượng phốt pho trong nước biển) và cố định 135 triệu tấn carbon (bằng khoảng 6% lượng carbon được thêm vào đại dương mỗi năm do phát thải khí nhà kính); đồng thời với sản lượng này sẽ sản xuất được lượng năng lượng tương đương với 23 tỷ gallon xăng, tiềm năng năng lượng sinh học cung cấp là 1,25 triệu MWh (bằng 1% lượng năng lượng sử dụng hàng năm toàn cầu).
Ủy ban Châu Âu cũng đã công nhận rằng tảo (tảo biển và vi tảo) là một lựa chọn đầy hứa hẹn cho an ninh lương thực, đến năm 2054 việc canh tác tảo tập thể có thể đạt sản lượng 56 triệu tấn protein, chiếm 18% thị trường protein thay thế toàn cầu. Việc trồng rong biển cũng góp phần tăng số lượng tín chỉ carbon cho Việt Nam và nhiều nước trên thế giới bởi rong biển hấp thu CO2 nhanh gấp 5 lần cây cối trên cạn, thời gian luân chuyển bể chứa cacbon của hệ sinh thái biển chỉ là 10 năm trong khi thời gian này đối với rừng trồng là 50 năm.