Thứ bảy 01/11/2025 19:27Thứ bảy 01/11/2025 19:27 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Việt Nam phù hợp cho nhiều loài nhuyễn thể, rong biển sinh sản và phát triển

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Việt Nam có 3200km bờ biển, 112 cửa sông, 660.000 ha bãi triều, vùng đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2 cùng nhiều eo vịnh, đầm phá với nền đáy đa dạng. Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới với các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn của vùng ven biển Việt Nam phù hợp cho nhiều loài nhuyễn thể, rong biển sinh sản và phát triển.
Ảnh: Hồng Thắm.
Vùng ven biển Việt Nam phù hợp cho nhiều loài nhuyễn thể, rong biển sinh sản và phát triển - Ảnh: Hồng Thắm.

Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045, Thủ tướng Chính phủ đặt ra mục tiêu tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản, đa dạng hóa các đối tượng tiềm năng của Việt Nam. Trong đó, sản phẩm nhuyễn thể và rong biển là một trong đối tượng nuôi có tiềm năng, còn dư địa để phát triển. Bên cạnh đó, thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 36- NQ/TW), Quyết định 1664/QĐ-TTg ngày 04/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhuyễn thể đã và đang là sản phẩm chính trong cơ cấu sản lượng nuôi biển tại Việt Nam còn rong biển cũng là đối tượng có nhiều tiềm năng phát triển. Năm 2024, diện tích nuôi nhuyễn thể là 57 nghìn ha (tăng 5,5% so với năm 2022, chiếm khoảng 90% tỷ trọng diện tích nuôi biển), sản lượng nhuyễn thể là 432 nghìn tấn (chiếm 56% tổng sản lượng nuôi biển); diện tích trồng rong biển là 16,5 nghìn ha, sản lượng rong biển là 155 nghìn tấn.

Bên cạnh việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và tạo sinh kế cho ngư dân ven biển nói chung, nuôi nhuyễn thể và trồng rong biển còn đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu áp lực khai thác nguồn lợi thủy sản, phục hồi sinh nguồn lợi và giảm xung đột trong quá trình bảo vệ nguồn lợi thủy sản, góp phần vào thực hiện chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam, góp phần giải quyết vấn đề khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định của ngành thủy sản. Tuy nhiên, ngành nuôi nhuyễn thể và trồng rong vẫn chưa thực sự “chuyển mình” do phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như chất lượng giống, tiêu thụ sản phẩm, chất lượng môi trường nuôi, dịch bệnh.

Xu hướng ăn lành mạnh (tập trung vào sức khỏe và dinh dưỡng của món ăn), xu hướng sử dụng “thực phẩm toàn phần” (thực phẩm giàu dinh dưỡng và không chứa thành phần nhân tạo và hóa chất, cung cấp các chất dinh dưỡng thiết yếu mà cơ thể chúng ta cần để hoạt động tối ưu) và chế độ ăn thực vật của người dân cũng là lý do thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành nhuyễn thể và rong biển. Bên cạnh đó, nhu cầu ngày càng tăng đối với các chất phụ gia thực phẩm lành mạnh, có thể thay thế dầu và chất béo giàu calo trong thực phẩm chế biến cũng sẽ thúc đẩy nhu cầu hydrocolloid (agar, alginate và carrageenan). Tại thị trường Mỹ, mức tăng trưởng của Hydrocolloid dự kiến là 10,7% từ năm 2020 đến năm 2028.

Phát biểu tại hội nghị "Phát triển sản xuất nhuyễn thể và rong biển" diễn ra sáng 26/12/2024, tại Nam Định, Ông Nguyễn Văn Hữu, Phó Trưởng phòng Nuôi trồng Thủy sản, Cục Thủy sản (Bộ NN-PTNT), thông tin, năm 2024, diện tích nuôi nhuyễn thể cả nước là 57.000ha, sản lượng nuôi đạt 477.878 tấn, tăng 8,4% so với cùng kỳ.

Các đối tượng nhuyễn thể được nuôi phổ biến hiện nay bao gồm các loài: ngao/nghêu, ngao dầu, ngao vân, vẹm xanh, ốc hương, sò huyết, sò lông, tu hài, hàu cửa sông, hàu Thái Bình Dương, điệp, ốc nhảy...

Việt Nam đã xuất khẩu nhuyễn thể sang nhiều thị trường trên thế giới. Trong 11 tháng của năm 2024, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 195,3 triệu USD, tăng 67% so với cùng kỳ năm ngoái. Các đối tượng xuất khẩu chủ yếu là ngao/nghêu, hàu, sò, vẹm.

Với rong biển, theo nhiều nghiên cứu, diện tích có tiềm năng cho trồng rong ở Việt Nam vào khoảng 900.000ha (tương đương với sản lượng 600.000-700.000 tấn khô/năm) nhưng việc trồng rong ở Việt Nam vẫn dừng lại ở quy mô nhỏ; nhiều năm qua, diện tích trồng rong không có đột phá. Diện tích trồng rong giai đoạn 2005-2024 chỉ tăng từ 8.265ha lên 16.500ha. Sản lượng thu hoạch năm 2024 khoảng 155.000 tấn tươi.

Sìn Hồ đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản, nâng cao thu nhập cho người dân Sìn Hồ đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản, nâng cao thu nhập cho người dân

Huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đang đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản, tận dụng lợi thế mặt nước, giúp người dân nâng cao thu ...

Nuôi theo chuẩn hữu cơ: Ngành thủy sản duyên hải miền Trung gặp khó Nuôi theo chuẩn hữu cơ: Ngành thủy sản duyên hải miền Trung gặp khó

Theo số liệu báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp, nông thôn năm 2023 và triển khai kế hoạch ...

Cao Bằng: Phát triển nuôi trồng thủy sản hiệu quả Cao Bằng: Phát triển nuôi trồng thủy sản hiệu quả

Cao Bằng đang tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, ứng dụng công nghệ cao, góp phần nâng cao hiệu ...

Theo báo cáo từ Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), thị trường nhuyễn thể dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) vừa phải là 4,5% trong giai đoạn dự báo từ năm 2022 đến năm 2032. Theo FMI, thị trường động vật thân mềm dự kiến sẽ tăng trưởng từ 60,72 tỷ đô la Mỹ vào năm 2021 lên 98,54 tỷ đô la Mỹ vào năm 2032. Trong khi đó, quy mô thị trường rong biển thương mại toàn cầu được định giá 16,6 tỷ USD vào năm 2020 và dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 10,8% từ năm 2021 đến năm 2028. Nhu cầu thị trường được dự đoán sẽ được thúc đẩy bởi sự phát triển công nghệ ngày càng tăng trong nuôi trồng rong biển cùng với đầu 10 tư ngày càng tăng vào các phân khúc ứng dụng, bao gồm thức ăn chăn nuôi và nông nghiệp.

Nghề trồng rong biển hiện đang nhận được sự quan tâm ngày càng tăng từ các quốc gia có thu nhập cao như một giải pháp dựa vào thiên nhiên để phát triển kinh tế, đóng góp to lớn vào các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (SDGs), SDG 14 (sinh vật thuỷ sinh), SDG13 (hành động khí hậu), SDG6 (tăng trưởng kinh tế và việc làm), SDG5 (bình đẳng giới) và Thập kỷ Khoa học Đại dương vì Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (2021 - 2030). Việc phát triển các công nghệ mới, dựa trên sinh thái, nuôi cấy bền vững sẽ đảm bảo việc làm trong tương lai cho các cộng đồng ven biển, các hệ sinh thái ven biển khỏe mạnh hơn và bảo vệ các quần thể hoang dã quan trọng.

Người dân có kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi nhuyễn thể và trồng rong biển đơn giản, chi phí thấp. Sự phát triển của công nghệ như tự động hóa, máy học và trí tuệ nhân tạo có khả năng thúc đẩy thị trường phát triển, hỗ trợ phương pháp chọn lọc giống, cũng như các hệ thống giám sát và quản lý hoặc giám sát canh tác được tối ưu hóa.

Nếu sản lượng rong biển toàn cầu sẽ đạt 500 triệu tấn vào năm 2050 theo dự báo của Ngân hàng thế giới, thì diện tích mặt nước biển canh tác chỉ là 0,5 triệu km2 (bằng 0,03% diện tích bề mặt đại dương), tiết kiệm 1 triệu km2 đất trồng trọt (bằng 6% diện tích đất trồng trọt toàn cầu), tiết kiệm 500 km3 nước ngọt (bằng 14% lượng nước ngọt mất đi trên toàn thế giới hàng năm); lượng protein sẽ cung cấp cho người và động vật là 50.000.000 tấn, ước tích giá trị 28 tỷ USD và có thể thay thế hoàn toàn dầu cá trong thức ăn chăn nuôi.

Cũng 500 triệu tấn này sẽ hấp thụ 10 triệu tấn nitơ (tương đương 30% lượng nitơ trong nước biển), 15 triệu tấn phốt pho (tương đương 33% tổng lượng phốt pho trong nước biển) và cố định 135 triệu tấn carbon (bằng khoảng 6% lượng carbon được thêm vào đại dương mỗi năm do phát thải khí nhà kính); đồng thời với sản lượng này sẽ sản xuất được lượng năng lượng tương đương với 23 tỷ gallon xăng, tiềm năng năng lượng sinh học cung cấp là 1,25 triệu MWh (bằng 1% lượng năng lượng sử dụng hàng năm toàn cầu).

Ủy ban Châu Âu cũng đã công nhận rằng tảo (tảo biển và vi tảo) là một lựa chọn đầy hứa hẹn cho an ninh lương thực, đến năm 2054 việc canh tác tảo tập thể có thể đạt sản lượng 56 triệu tấn protein, chiếm 18% thị trường protein thay thế toàn cầu. Việc trồng rong biển cũng góp phần tăng số lượng tín chỉ carbon cho Việt Nam và nhiều nước trên thế giới bởi rong biển hấp thu CO2 nhanh gấp 5 lần cây cối trên cạn, thời gian luân chuyển bể chứa cacbon của hệ sinh thái biển chỉ là 10 năm trong khi thời gian này đối với rừng trồng là 50 năm.

Bài liên quan

Quảng Ninh: Kết quả công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực thủy sản

Quảng Ninh: Kết quả công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực thủy sản

Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư đã hướng dẫn, hỗ trợ người dân thực hiện thủ tục cấp giấy xác nhận đăng ký nuôi trồng thủy sản lồng bè, đối tượng nuôi trồng thủy sản chủ lực, cấp giấy phép khai thác thuỷ sản, đăng ký tàu cá… trên hệ thống httpsdichvucong.quangninh.gov.vn
Quảng Trị: Đa dạng hoá các mô hình nuôi trồng thuỷ hải sản

Quảng Trị: Đa dạng hoá các mô hình nuôi trồng thuỷ hải sản

Tỉnh Quảng Trị đã hình thành một số vùng nuôi tôm tập trung ven sông Bến Hải, sông Thạch Hãn, sông Gianh, sông Kiến Giang và vùng bãi ngang ven biển…Ngoài ra, nuôi thủy sản nước mặn lợ tại Quảng Trị còn thêm một số đối tượng khác như cá dìa, cá kình, ốc hương, rong câu.
Quảng Ninh: Nâng cao hiệu quả kiểm soát sản lượng thủy sản khai thác

Quảng Ninh: Nâng cao hiệu quả kiểm soát sản lượng thủy sản khai thác

Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư tỉnh Quảng Ninh cử cán bộ phối hợp tập huấn, hướng dẫn sử dụng phần mềm truy xuất nguồn gốc thuỷ sản khai thác điện tử (eCDT) trên địa bàn phường Hồng Gai.
Gia Lai ứng phó với lệnh cấm nhập khẩu thủy sản Hoa Kỳ

Gia Lai ứng phó với lệnh cấm nhập khẩu thủy sản Hoa Kỳ

Nhằm đối phó kịp thời với lệnh cấm nhập khẩu thủy sản theo Đạo luật Bảo vệ Thú biển (MMPA) đầy nghiêm ngặt của Hoa Kỳ, UBND tỉnh Gia Lai vừa khẩn trương ban hành Kế hoạch số 84/KH-UBND. Kế hoạch này không chỉ là phản ứng trước thách thức mà còn là một bước ngoặt lớn, khẳng định cam kết của tỉnh về một ngành thủy sản khai thác có trách nhiệm và bền vững.
Quảng Ninh: Các hộ dân nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mặt nước nuôi trồng thủy sản (đợt 1)

Quảng Ninh: Các hộ dân nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mặt nước nuôi trồng thủy sản (đợt 1)

Phường Móng Cái 1 đã trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mặt nước nuôi trồng thủy sản (NTTS) cho 18 trường hợp nuôi trồng thủy sản tại khu vực Trà Cổ (phường Móng Cái 1).
Quảng Ninh: Thả con giống tái tạo nguồn lợi thuỷ sản

Quảng Ninh: Thả con giống tái tạo nguồn lợi thuỷ sản

Sở Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND phường Cẩm Phả và Hội Nghề cá tỉnh Quảng Ninh tổ chức chương trình thả cá giống tái tạo nguồn lợi thủy sản năm 2025.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng (Care), đôi khi còn được gọi là nguyên tắc phòng ngừa (Precautionary Principle), là một trong bốn nguyên tắc cốt lõi của nông nghiệp hữu cơ, bên cạnh các nguyên tắc về sức khỏe, sinh thái và công bằng.
Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài cuối: Truyền thông dẫn dắt và lan tỏa tri thức phát triển nông nghiệp xanh

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài cuối: Truyền thông dẫn dắt và lan tỏa tri thức phát triển nông nghiệp xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp, giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là hướng đi tất yếu để phát triển bền vững. Trong đó, truyền thông đóng vai trò then chốt trong việc lan tỏa tri thức, thay đổi nhận thức và thúc đẩy cộng đồng nông dân cùng doanh nghiệp chung tay xây dựng nền nông nghiệp xanh, thân thiện với môi trường.
Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài 2: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài 2: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Trong hơn một thập kỷ qua, giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp - đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt đã được cộng đồng quốc tế xác định là một trong những giải pháp trọng yếu để ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhiều cơ chế, cam kết và sáng kiến toàn cầu đã được thiết lập nhằm hỗ trợ các quốc gia phát triển và đang phát triển triển khai các giải pháp kỹ thuật, tài chính và giám sát trong sản xuất nông nghiệp giảm phát thải.
Nguyên tắc về sinh thái là nền tảng cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp hữu cơ

Nguyên tắc về sinh thái là nền tảng cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ không chỉ đơn thuần là việc tránh sử dụng hóa chất tổng hợp mà còn là một hệ thống canh tác dựa trên các nguyên tắc sinh thái. Nguyên tắc về sinh thái trong nông nghiệp hữu cơ nhấn mạnh sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật sống và môi trường của chúng. Nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững, hài hòa với tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và các quá trình sinh thái tự nhiên.
Khai thác tài nguyên và phát triển năng lượng sạch - xanh

Khai thác tài nguyên và phát triển năng lượng sạch - xanh

Trong thế kỷ XXI, con người đứng trước những thách thức to lớn từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Mô hình phát triển “nâu” dựa vào khai thác tài nguyên không tái tạo, sử dụng năng lượng hóa thạch và tiêu thụ lãng phí đã bộc lộ giới hạn. Để đảm bảo tương lai bền vững, nhân loại đang hướng đến ba trụ cột quan trọng: khai thác tài nguyên và phát triển năng lượng sạch - xanh, quản lý và sử dụng nước hiệu quả, cùng với thúc đẩy kinh tế tuần hoàn dựa trên vật liệu tái sử dụng.
Đánh giá hiệu quả của các mô hình canh tác hữu cơ tích hợp trong cải thiện độ phì nhiêu đất và đa dạng sinh học tại các vùng đất bạc màu ở Đông Nam Bộ

Đánh giá hiệu quả của các mô hình canh tác hữu cơ tích hợp trong cải thiện độ phì nhiêu đất và đa dạng sinh học tại các vùng đất bạc màu ở Đông Nam Bộ

Các vùng đất bạc màu, nghèo dinh dưỡng tại Đông Nam Bộ, Việt Nam, đang đối mặt với nguy cơ thoái hóa nghiêm trọng do tác động của canh tác độc canh và việc lạm dụng phân bón hóa học. Để giải quyết vấn đề này, các mô hình canh tác hữu cơ tích hợp (Integrated Organic Farming Systems - IOFS) đang được coi là một giải pháp hiệu quả và bền vững. IOFS không chỉ tập trung vào việc loại bỏ hóa chất nông nghiệp mà còn tích hợp nhiều yếu tố như cây trồng, vật nuôi, thủy sản, và vi sinh vật để tạo ra một hệ sinh thái nông nghiệp khép kín, tự cung tự cấp. Bài viết này sẽ phân tích và đánh giá hiệu quả của các mô hình IOFS trong việc cải thiện độ phì nhiêu đất và tăng cường đa dạng sinh học, từ đó đưa ra một hướng đi mới cho nền nông nghiệp bền vững tại khu vực này.
Những nguyên tắc về sức khỏe trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Những nguyên tắc về sức khỏe trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Năm 2005, hội nghị thường niên của IFOAM tổ chức tại Adelaide - Úc đã thống nhất một định nghĩa chung về Nông nghiệp hữu cơ và xây dựng 4 nguyên tắc gồm: sức khoẻ, sinh thái, công bằng và cẩn trọng định hướng cho sản xuất và xây dựng các tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ.
Làm thế nào để tăng độ phủ cho bảo hiểm nông nghiệp?

Làm thế nào để tăng độ phủ cho bảo hiểm nông nghiệp?

Bảo hiểm nông nghiệp thất bại vì nhiều lý do, trong đó sản phẩm nông dân cần thì chưa có, nhưng sản phẩm có nông dân lại ít quan tâm.
Tiềm năng và thách thức trong phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam

Tiềm năng và thách thức trong phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam

Nông nghiệp hữu cơ đang nổi lên như một xu hướng tất yếu và đầy hứa hẹn cho ngành nông nghiệp Việt Nam, mang theo kỳ vọng về một nền sản xuất bền vững, sản phẩm an toàn và giá trị gia tăng cao hơn. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên đa dạng, lực lượng lao động nông nghiệp dồi dào và sự quan tâm ngày càng tăng từ thị trường nội địa cũng như quốc tế, tương lai phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam được đánh giá là rất sáng sủa, dù vẫn còn đó những thách thức cần vượt qua.
Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam

Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam

Nông nghiệp hữu cơ đang trở thành xu hướng tất yếu trong bối cảnh biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và nhu cầu tiêu dùng thực phẩm an toàn ngày càng tăng cao. Tại Việt Nam, với tiềm năng nông nghiệp phong phú và truyền thống canh tác lâu đời, việc phát triển nông nghiệp hữu cơ không chỉ là cơ hội mà còn là yêu cầu cấp thiết.
Điểm qua thành tựu sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam

Điểm qua thành tựu sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ trong ngành nông nghiệp. Sự gia tăng nhận thức về an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã thúc đẩy người nông dân, doanh nghiệp và nhà quản lý cùng chung tay xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ ngày càng vững mạnh.
Cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam

Cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam

Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã đặc biệt quan tâm và đưa ra nhiều cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ. Điều này xuất phát từ nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng của nông nghiệp hữu cơ trong việc bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng nông sản và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về thực phẩm an toàn.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính