Người dân xã Quang Trung, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn chăm sóc hồi. Ảnh: Nguyễn Thành. |
Lạng Sơn sở hữu nguồn tài nguyên đất đai phong phú, đa dạng về thổ nhưỡng, khí hậu phân hóa theo độ cao, tạo điều kiện cho nhiều loại cây trồng phát triển, đặc biệt là các loại cây đặc sản như hồi, na, quýt, rau màu ôn đới. Bên cạnh đó, người dân Lạng Sơn từ lâu đời đã có kinh nghiệm canh tác nông nghiệp theo phương thức truyền thống, ít sử dụng hóa chất, đây là nền tảng quan trọng để chuyển đổi sang nông nghiệp hữu cơ.
Một trong những tiềm năng nổi bật của nông nghiệp hữu cơ ở Lạng Sơn là cây hồi. Lạng Sơn chiếm khoảng 70% diện tích hồi của cả nước, với hơn 28.000 ha hồi hữu cơ đang cho thu hoạch ổn định. Sản lượng hoa hồi khô đạt từ 7.500 đến 16.000 tấn/năm, mang lại giá trị kinh tế ước tính 1.700 tỷ đồng/năm. Việc canh tác hồi theo tiêu chuẩn hữu cơ không chỉ nâng cao giá trị sản phẩm mà còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngoài cây hồi, Lạng Sơn còn có tiềm năng phát triển nông nghiệp hữu cơ với các loại cây ăn quả như na Chi Lăng, quýt Bắc Sơn, các loại rau màu ôn đới được trồng ở các vùng có khí hậu mát mẻ trên Mẫu Sơn. Nhiều mô hình sản xuất rau an toàn, rau hữu cơ theo tiêu chuẩn VietGAP cũng đã được triển khai và mang lại hiệu quả tích cực.
Mặc dù có nhiều tiềm năng, nhưng việc phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Lạng Sơn cũng đang gặp phải không ít khó khăn. Trước hết, nhận thức của người dân về nông nghiệp hữu cơ còn hạn chế. Nhiều người vẫn quen với phương thức canh tác truyền thống, sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Việc chuyển đổi sang phương thức canh tác hữu cơ đòi hỏi thời gian, công sức và chi phí đầu tư ban đầu cao hơn, khiến nhiều nông dân còn e ngại.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm hữu cơ còn nhỏ hẹp và chưa ổn định. Giá thành sản phẩm hữu cơ thường cao hơn so với sản phẩm thông thường, trong khi thu nhập của người tiêu dùng ở Lạng Sơn còn thấp, dẫn đến khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, hệ thống chứng nhận và kiểm soát chất lượng sản phẩm hữu cơ chưa được hoàn thiện, gây khó khăn cho việc xây dựng thương hiệu và tạo lòng tin cho người tiêu dùng. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn thiếu và yếu. Hệ thống giao thông, thủy lợi, hệ thống xử lý chất thải chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn hạn chế, đặc biệt là công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch.
Để phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Lạng Sơn một cách bền vững, cần có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả. Trước hết, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức dẫn đến thay đổi hành vi cho người dân về lợi ích của nông nghiệp hữu cơ đối với sức khỏe con người và môi trường. Cần có chính sách hỗ trợ nông dân chuyển đổi sang phương thức canh tác hữu cơ, bao gồm hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, giống cây trồng và vật nuôi.
Cần xây dựng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm hữu cơ, kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào chế biến và tiêu thụ sản phẩm hữu cơ. Xây dựng hệ thống chứng nhận và kiểm soát chất lượng sản phẩm hữu cơ theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế để tạo lòng tin cho người tiêu dùng. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đặc biệt là hệ thống giao thông, thủy lợi và hệ thống xử lý chất thải. Khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến và bảo quản sản phẩm hữu cơ.
Phát triển nông nghiệp hữu cơ là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống. Với những tiềm năng sẵn có và những giải pháp đồng bộ, Lạng Sơn hoàn toàn có thể phát triển nông nghiệp hữu cơ một cách bền vững, góp phần nâng cao đời sống người dân và bảo vệ môi trường./.