Chủ nhật 09/11/2025 07:13Chủ nhật 09/11/2025 07:13 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Lai Châu: Sản xuất hữu cơ phát triển bền vững cây chè

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Tỉnh Lai Châu hiện có khoảng 260 ha chè áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn, trong đó diện tích đã được chứng nhận khoảng 160 ha (chứng nhận tiêu chuẩn RA 126 ha; chứng nhận VietGAP 10,5 ha; chứng nhận Hữu cơ 23,6 ha); đang triển khai thực hiện trên 100 ha chè áp dụng tiêu chuẩn VietGap.
ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết, thời gian tới Lai Châu tập trung phát triển bền vững cây chè theo hướng hàng hóa, gắn sản xuất với chế biến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết, thời gian tới Lai Châu tập trung phát triển bền vững cây chè theo hướng hàng hóa, gắn sản xuất với chế biến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái - Ảnh minh họa

Lai Châu là tỉnh miền núi phía Bắc, là nơi khởi nguồn của con sông Đà hùng vĩ cung cấp nguồn thủy năng dồi dào cho các nhà máy thủy điện lớn của Quốc Gia như Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu…Với diện tích tự nhiên 906.878,87 ha, trong đó có 526.533,58 ha đất nông nghiệp, chiếm 58,06% diện tích tự nhiên của tỉnh. Địa hình chia cắt mạnh bởi dãy núi Hoàng Liên Sơn và hệ thống lưu vực sông Đà, tạo ra các tiểu vùng khí hậu đặc trưng khác nhau từ độ cao trên 200m đến hơn 3.000m so với mực nước biển; có lợi thế phát triển nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc sản, chất lượng, trong đó có sản phẩm chủ lực của tỉnh là cây chè.

Phát biểu tại diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ chè chất lượng cao”, tổ chức ngày 5/11/2024, ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết: Hiện nay, toàn tỉnh có trên 10.500ha chè, trong đó diện tích chè kinh doanh 8.400ha, năng suất chè búp tươi bình quân đạt trên 70 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi trên 58.000 tấn. Diện tích chè thực hiện liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm trên 7.000ha, chiếm 67% tổng diện tích. Toàn tỉnh có khoảng 260 ha chè áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn, trong đó diện tích đã được chứng nhận khoảng 160 ha (chứng nhận tiêu chuẩn RA 126 ha; chứng nhận VietGAP 10,5 ha; chứng nhận Hữu cơ 23,6 ha); đang triển khai thực hiện trên 100 ha chè áp dụng tiêu chuẩn VietGap.

Bên cạnh đó, các công ty, doanh nghiệp và người dân trong tỉnh đã chú trọng đầu tư thâm canh, áp dụng các tiêu chuẩn an toàn trong sản xuất; đa dạng về mẫu mã, sản phẩm. Tỉnh Lai Châu cũng ban hành các chính sách, hỗ trợ bà con phát triển ngành chè như: hỗ trợ 100% nguồn giống trong 3 năm đầu; chi phí đầu vào và đầu tư 15 tỉ đồng vào nhà máy sản xuất và chế biến.

Chuyển đổi sản xuất hữu cơ, chất lượng cao để ngành chè Việt Nam phát triển bền vững Chuyển đổi sản xuất hữu cơ, chất lượng cao để ngành chè Việt Nam phát triển bền vững
Cần đánh thức tiềm năng cho chè Việt Cần đánh thức tiềm năng cho chè Việt
Chè Việt Nam: Nâng tầm giá trị, vươn ra thế giới Chè Việt Nam: Nâng tầm giá trị, vươn ra thế giới

Toàn tỉnh Lai Châu đã có 21 sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn sản phẩm OCOP, trong đó có 07 sản phẩm đạt 4 sao; 14 sản phẩm đạt 3 sao; có 09 sản phẩm/bộ sản phẩm được công nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh, 02 bộ sản phẩm được công nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn cấp khu vực và quốc gia.

Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu cho sản phẩm chè của huyện Tân Uyên, Tam Đường. Các sản phẩm sau chế biến được các nhà nhập khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu lớn trong nước đặt hàng và chủ yếu là sản phẩm thô như: Chè xanh sao lăn, chè xanh duỗi, chè Olong. Một số doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp hoặc ủy thác dưới dạng đóng bao lớn với bao bì đóng gói của các nhà nhập khẩu và được xuất khẩu sang các thị trường truyền thống có yêu cầu không cao về chất lượng sản phẩm như: Afghanistan (đây là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của tỉnh), Pakistan; Đài Loan; giai đoạn 2020-2024, sản chè khô xuất khẩu đạt 15,38 tấn, trị giá 32,36 triệu USD. Các sản phẩm chè của tỉnh chủ yếu là xuất khẩu sang thị trường Afghanistan, Pakistan và Đài loan, trong đó xuất khẩu trực tiếp chiếm 35% tổng sản lượng chè; còn lại là xuất ủy thác và bán nội tiêu. Tỷ lệ chè xanh sao lăn, chè xanh duỗi chiếm khoảng 90%; chè đen chiếm khoảng 10% sản lượng chè.

Theo ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu.
Ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu.

Xác định có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất chè tập trung, UBND tỉnh Lai Châu đã ban hành đề án phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó xác định đến năm 2025, toàn tỉnh có trên 10.000 ha chè, thực hiện bảo tồn, trồng mới và trồng bổ sung 300 ha chè cổ thụ gắn với phát triển du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, HĐND tỉnh Lai Châu đã ban hành Nghị quyết số 07/2021/NQ-HĐND ngày 22/3/2021 quy định chính sách về phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung giai đoạn 2021 – 2025, trong đó quy định chính sách hỗ trợ phát triển vùng chè tập trung chất lượng cao, phát triển và bảo tồn cây chè cổ thụ (hỗ trợ 100% giống trồng mới, phân bón lót theo quy trình; hỗ trợ chuyển đổi đất, khai hoang, làm đất, phát dọn thực bì); hỗ trợ áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn đảm bảo an toàn thực phẩm (VietGAP và tương đương, hữu cơ, tiêu chuẩn xuất khẩu…).

Tuy nhiên, ngành chè Lai Châu còn những hạn chế, yếu kém. Diện tích sản xuất theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm (VietGAP, GlobalGAP, RA, hữu cơ…) còn ít. Các cơ sở chế biến chè của tỉnh có quy mô nhỏ, các sản phẩm chè chế biến chủ yếu là dạng thô, mẫu mã chưa đa dạng, năng lực cạnh tranh thấp. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ còn hạn chế, chủ yếu xuất khẩu tại các nước Trung Đông và Đài Loan, dẫn đến giá thành còn thấp.

Vì vậy, ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết, thời gian tới Lai Châu tập trung phát triển bền vững cây chè theo hướng hàng hóa, gắn sản xuất với chế biến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường.

Song song với đó, phát triển du lịch sinh thái gắn với bản sắc văn hóa dân tộc, tạo ra 1 kênh tiêu thụ chè tại chỗ thông qua du lịch.

Bài liên quan

Tác động của PGS đến phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Châu Á – Bài học và hành trình phát triển

Tác động của PGS đến phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Châu Á – Bài học và hành trình phát triển

Sáng 18/9, trong khuôn khổ của Hội nghị hữu cơ Châu Á lần thứ 8 được tổ chức tại Ninh Bình, phiên thảo luận về tác động của PGS đến sự phát triển hữu cơ tại Châu Á. Các chuyên gia đến từ Ấn Độ, Philippines, Sri Lanka và Việt Nam đã chia sẻ thành công, thách thức và bài học từ thực tiễn.
Hà Tĩnh đẩy mạnh nông nghiệp thông minh thích ứng khí hậu cực đoan

Hà Tĩnh đẩy mạnh nông nghiệp thông minh thích ứng khí hậu cực đoan

Biến đổi khí hậu đang tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp Hà Tĩnh, với những đợt nắng nóng gay gắt, rét đậm rét hại và mưa lũ bất thường. Trước thực tế này, nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ và đa dạng hóa nuôi trồng đã được triển khai, giúp nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và giảm thiểu rủi ro.
Nông nghiệp hữu cơ qua thời "lẻ bóng bơ vơ" một mình - Bài 4: Đột phá chính sách, vươn mình ra biển lớn

Nông nghiệp hữu cơ qua thời "lẻ bóng bơ vơ" một mình - Bài 4: Đột phá chính sách, vươn mình ra biển lớn

Từ những nỗ lực cá nhân đến sự hợp lực của cộng đồng, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đang đứng trước cơ hội vàng để định hình lại vị thế trên bản đồ nông sản toàn cầu. Đây là câu chuyện về tầm nhìn xa, về khát vọng đưa hạt gạo, rau quả, và đặc sản hữu cơ của Việt Nam không chỉ chinh phục thị trường nội địa mà còn khẳng định thương hiệu trên trường quốc tế, góp phần xây dựng một nền nông nghiệp thịnh vượng và bền vững cho muôn đời sau.
Bắc Kạn: Sản xuất hữu cơ là ưu tiên lựa chọn đối với ngành nông nghiệp

Bắc Kạn: Sản xuất hữu cơ là ưu tiên lựa chọn đối với ngành nông nghiệp

Bắc Kạn là địa phương có tiềm năng để phát triển nông nghiệp hữu cơ rất lớn vì có những điều kiện rất tốt để sản xuất nông nghiệp hữu cơ với các yếu tố về đất đai, không khí, nguồn nước chưa bị ô nhiễm, đáp ứng được các tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ.
Sự khác biệt giữa nông nghiệp thông thường và nông nghiệp hữu cơ?

Sự khác biệt giữa nông nghiệp thông thường và nông nghiệp hữu cơ?

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và mối quan tâm ngày càng tăng về an toàn thực phẩm, sự khác biệt giữa nông nghiệp thông thường và nông nghiệp hữu cơ ngày càng trở nên quan trọng. Hai phương thức canh tác này có những triết lý và phương pháp tiếp cận khác nhau, ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe con người và chất lượng sản phẩm.
Gạo hữu cơ có thực sự sạch, chất lượng?

Gạo hữu cơ có thực sự sạch, chất lượng?

Gạo hữu cơ đang chiếm được nhiều sự quan tâm của người tiêu dùng thông thái và ngày càng lớn mạnh, cuộc sống hiện đại với thu nhập ngày càng được nâng cao khiến người tiêu dùng chú trọng nhiều hơn đến sức khỏe.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Theo ông Đặng Huy Đông, Trưởng Ban Vận động thành lập Hiệp hội chuyển đổi xanh Việt Nam (VGA), niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh, chỉ có thể được xây dựng khi các chủ thể tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình minh bạch và cam kết phát triển bền vững.
Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Để bảo vệ và cải tạo đất các địa phương cần tái cơ cấu ngành lúa gạo (giảm diện tích lúa độc canh; phát triển mô hình xen canh, đa canh; tăng cường lúa chất lượng cao); áp dụng khoa học công nghệ và nông nghiệp thông minh (nông nghiệp thông minh, chính xác; phát triển giống lúa thích ứng; thúc đẩy một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp).
Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng lộ trình tiến tới ngừng nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất carbosulfan và benfuracarb (thuộc nhóm thuốc trừ sâu) tại Việt Nam.
Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ không chỉ là một phương thức canh tác mà còn là một hệ thống giá trị, trong đó sự công bằng đóng vai trò then chốt. Nguyên tắc về sự công bằng trong nông nghiệp hữu cơ vượt ra ngoài phạm vi kinh tế, bao gồm cả sự công bằng về xã hội, môi trường và đạo đức. Nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững, không chỉ mang lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng mà còn đảm bảo quyền lợi và phúc lợi cho tất cả các bên liên quan, bao gồm cả môi trường và các thế hệ tương lai.
Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng (Care), đôi khi còn được gọi là nguyên tắc phòng ngừa (Precautionary Principle), là một trong bốn nguyên tắc cốt lõi của nông nghiệp hữu cơ, bên cạnh các nguyên tắc về sức khỏe, sinh thái và công bằng.
Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài cuối: Truyền thông dẫn dắt và lan tỏa tri thức phát triển nông nghiệp xanh

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài cuối: Truyền thông dẫn dắt và lan tỏa tri thức phát triển nông nghiệp xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp, giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là hướng đi tất yếu để phát triển bền vững. Trong đó, truyền thông đóng vai trò then chốt trong việc lan tỏa tri thức, thay đổi nhận thức và thúc đẩy cộng đồng nông dân cùng doanh nghiệp chung tay xây dựng nền nông nghiệp xanh, thân thiện với môi trường.
Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài 2: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài 2: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Trong hơn một thập kỷ qua, giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp - đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt đã được cộng đồng quốc tế xác định là một trong những giải pháp trọng yếu để ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhiều cơ chế, cam kết và sáng kiến toàn cầu đã được thiết lập nhằm hỗ trợ các quốc gia phát triển và đang phát triển triển khai các giải pháp kỹ thuật, tài chính và giám sát trong sản xuất nông nghiệp giảm phát thải.
Nguyên tắc về sinh thái là nền tảng cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp hữu cơ

Nguyên tắc về sinh thái là nền tảng cho sự phát triển bền vững của nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ không chỉ đơn thuần là việc tránh sử dụng hóa chất tổng hợp mà còn là một hệ thống canh tác dựa trên các nguyên tắc sinh thái. Nguyên tắc về sinh thái trong nông nghiệp hữu cơ nhấn mạnh sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật sống và môi trường của chúng. Nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững, hài hòa với tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và các quá trình sinh thái tự nhiên.
Khai thác tài nguyên và phát triển năng lượng sạch - xanh

Khai thác tài nguyên và phát triển năng lượng sạch - xanh

Trong thế kỷ XXI, con người đứng trước những thách thức to lớn từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Mô hình phát triển “nâu” dựa vào khai thác tài nguyên không tái tạo, sử dụng năng lượng hóa thạch và tiêu thụ lãng phí đã bộc lộ giới hạn. Để đảm bảo tương lai bền vững, nhân loại đang hướng đến ba trụ cột quan trọng: khai thác tài nguyên và phát triển năng lượng sạch - xanh, quản lý và sử dụng nước hiệu quả, cùng với thúc đẩy kinh tế tuần hoàn dựa trên vật liệu tái sử dụng.
Đánh giá hiệu quả của các mô hình canh tác hữu cơ tích hợp trong cải thiện độ phì nhiêu đất và đa dạng sinh học tại các vùng đất bạc màu ở Đông Nam Bộ

Đánh giá hiệu quả của các mô hình canh tác hữu cơ tích hợp trong cải thiện độ phì nhiêu đất và đa dạng sinh học tại các vùng đất bạc màu ở Đông Nam Bộ

Các vùng đất bạc màu, nghèo dinh dưỡng tại Đông Nam Bộ, Việt Nam, đang đối mặt với nguy cơ thoái hóa nghiêm trọng do tác động của canh tác độc canh và việc lạm dụng phân bón hóa học. Để giải quyết vấn đề này, các mô hình canh tác hữu cơ tích hợp (Integrated Organic Farming Systems - IOFS) đang được coi là một giải pháp hiệu quả và bền vững. IOFS không chỉ tập trung vào việc loại bỏ hóa chất nông nghiệp mà còn tích hợp nhiều yếu tố như cây trồng, vật nuôi, thủy sản, và vi sinh vật để tạo ra một hệ sinh thái nông nghiệp khép kín, tự cung tự cấp. Bài viết này sẽ phân tích và đánh giá hiệu quả của các mô hình IOFS trong việc cải thiện độ phì nhiêu đất và tăng cường đa dạng sinh học, từ đó đưa ra một hướng đi mới cho nền nông nghiệp bền vững tại khu vực này.
Những nguyên tắc về sức khỏe trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Những nguyên tắc về sức khỏe trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ

Năm 2005, hội nghị thường niên của IFOAM tổ chức tại Adelaide - Úc đã thống nhất một định nghĩa chung về Nông nghiệp hữu cơ và xây dựng 4 nguyên tắc gồm: sức khoẻ, sinh thái, công bằng và cẩn trọng định hướng cho sản xuất và xây dựng các tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ.
Làm thế nào để tăng độ phủ cho bảo hiểm nông nghiệp?

Làm thế nào để tăng độ phủ cho bảo hiểm nông nghiệp?

Bảo hiểm nông nghiệp thất bại vì nhiều lý do, trong đó sản phẩm nông dân cần thì chưa có, nhưng sản phẩm có nông dân lại ít quan tâm.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính