Chủ nhật 16/11/2025 07:57Chủ nhật 16/11/2025 07:57 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Lai Châu: Sản xuất hữu cơ phát triển bền vững cây chè

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Tỉnh Lai Châu hiện có khoảng 260 ha chè áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn, trong đó diện tích đã được chứng nhận khoảng 160 ha (chứng nhận tiêu chuẩn RA 126 ha; chứng nhận VietGAP 10,5 ha; chứng nhận Hữu cơ 23,6 ha); đang triển khai thực hiện trên 100 ha chè áp dụng tiêu chuẩn VietGap.
ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết, thời gian tới Lai Châu tập trung phát triển bền vững cây chè theo hướng hàng hóa, gắn sản xuất với chế biến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết, thời gian tới Lai Châu tập trung phát triển bền vững cây chè theo hướng hàng hóa, gắn sản xuất với chế biến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái - Ảnh minh họa

Lai Châu là tỉnh miền núi phía Bắc, là nơi khởi nguồn của con sông Đà hùng vĩ cung cấp nguồn thủy năng dồi dào cho các nhà máy thủy điện lớn của Quốc Gia như Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu…Với diện tích tự nhiên 906.878,87 ha, trong đó có 526.533,58 ha đất nông nghiệp, chiếm 58,06% diện tích tự nhiên của tỉnh. Địa hình chia cắt mạnh bởi dãy núi Hoàng Liên Sơn và hệ thống lưu vực sông Đà, tạo ra các tiểu vùng khí hậu đặc trưng khác nhau từ độ cao trên 200m đến hơn 3.000m so với mực nước biển; có lợi thế phát triển nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc sản, chất lượng, trong đó có sản phẩm chủ lực của tỉnh là cây chè.

Phát biểu tại diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ chè chất lượng cao”, tổ chức ngày 5/11/2024, ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết: Hiện nay, toàn tỉnh có trên 10.500ha chè, trong đó diện tích chè kinh doanh 8.400ha, năng suất chè búp tươi bình quân đạt trên 70 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi trên 58.000 tấn. Diện tích chè thực hiện liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm trên 7.000ha, chiếm 67% tổng diện tích. Toàn tỉnh có khoảng 260 ha chè áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn, trong đó diện tích đã được chứng nhận khoảng 160 ha (chứng nhận tiêu chuẩn RA 126 ha; chứng nhận VietGAP 10,5 ha; chứng nhận Hữu cơ 23,6 ha); đang triển khai thực hiện trên 100 ha chè áp dụng tiêu chuẩn VietGap.

Bên cạnh đó, các công ty, doanh nghiệp và người dân trong tỉnh đã chú trọng đầu tư thâm canh, áp dụng các tiêu chuẩn an toàn trong sản xuất; đa dạng về mẫu mã, sản phẩm. Tỉnh Lai Châu cũng ban hành các chính sách, hỗ trợ bà con phát triển ngành chè như: hỗ trợ 100% nguồn giống trong 3 năm đầu; chi phí đầu vào và đầu tư 15 tỉ đồng vào nhà máy sản xuất và chế biến.

Chuyển đổi sản xuất hữu cơ, chất lượng cao để ngành chè Việt Nam phát triển bền vững Chuyển đổi sản xuất hữu cơ, chất lượng cao để ngành chè Việt Nam phát triển bền vững
Cần đánh thức tiềm năng cho chè Việt Cần đánh thức tiềm năng cho chè Việt
Chè Việt Nam: Nâng tầm giá trị, vươn ra thế giới Chè Việt Nam: Nâng tầm giá trị, vươn ra thế giới

Toàn tỉnh Lai Châu đã có 21 sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn sản phẩm OCOP, trong đó có 07 sản phẩm đạt 4 sao; 14 sản phẩm đạt 3 sao; có 09 sản phẩm/bộ sản phẩm được công nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh, 02 bộ sản phẩm được công nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn cấp khu vực và quốc gia.

Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu cho sản phẩm chè của huyện Tân Uyên, Tam Đường. Các sản phẩm sau chế biến được các nhà nhập khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu lớn trong nước đặt hàng và chủ yếu là sản phẩm thô như: Chè xanh sao lăn, chè xanh duỗi, chè Olong. Một số doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp hoặc ủy thác dưới dạng đóng bao lớn với bao bì đóng gói của các nhà nhập khẩu và được xuất khẩu sang các thị trường truyền thống có yêu cầu không cao về chất lượng sản phẩm như: Afghanistan (đây là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của tỉnh), Pakistan; Đài Loan; giai đoạn 2020-2024, sản chè khô xuất khẩu đạt 15,38 tấn, trị giá 32,36 triệu USD. Các sản phẩm chè của tỉnh chủ yếu là xuất khẩu sang thị trường Afghanistan, Pakistan và Đài loan, trong đó xuất khẩu trực tiếp chiếm 35% tổng sản lượng chè; còn lại là xuất ủy thác và bán nội tiêu. Tỷ lệ chè xanh sao lăn, chè xanh duỗi chiếm khoảng 90%; chè đen chiếm khoảng 10% sản lượng chè.

Theo ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu.
Ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu.

Xác định có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất chè tập trung, UBND tỉnh Lai Châu đã ban hành đề án phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó xác định đến năm 2025, toàn tỉnh có trên 10.000 ha chè, thực hiện bảo tồn, trồng mới và trồng bổ sung 300 ha chè cổ thụ gắn với phát triển du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, HĐND tỉnh Lai Châu đã ban hành Nghị quyết số 07/2021/NQ-HĐND ngày 22/3/2021 quy định chính sách về phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung giai đoạn 2021 – 2025, trong đó quy định chính sách hỗ trợ phát triển vùng chè tập trung chất lượng cao, phát triển và bảo tồn cây chè cổ thụ (hỗ trợ 100% giống trồng mới, phân bón lót theo quy trình; hỗ trợ chuyển đổi đất, khai hoang, làm đất, phát dọn thực bì); hỗ trợ áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn đảm bảo an toàn thực phẩm (VietGAP và tương đương, hữu cơ, tiêu chuẩn xuất khẩu…).

Tuy nhiên, ngành chè Lai Châu còn những hạn chế, yếu kém. Diện tích sản xuất theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm (VietGAP, GlobalGAP, RA, hữu cơ…) còn ít. Các cơ sở chế biến chè của tỉnh có quy mô nhỏ, các sản phẩm chè chế biến chủ yếu là dạng thô, mẫu mã chưa đa dạng, năng lực cạnh tranh thấp. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ còn hạn chế, chủ yếu xuất khẩu tại các nước Trung Đông và Đài Loan, dẫn đến giá thành còn thấp.

Vì vậy, ông Hà Trọng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho biết, thời gian tới Lai Châu tập trung phát triển bền vững cây chè theo hướng hàng hóa, gắn sản xuất với chế biến, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường.

Song song với đó, phát triển du lịch sinh thái gắn với bản sắc văn hóa dân tộc, tạo ra 1 kênh tiêu thụ chè tại chỗ thông qua du lịch.

Bài liên quan

Tác động của PGS đến phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Châu Á – Bài học và hành trình phát triển

Tác động của PGS đến phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Châu Á – Bài học và hành trình phát triển

Sáng 18/9, trong khuôn khổ của Hội nghị hữu cơ Châu Á lần thứ 8 được tổ chức tại Ninh Bình, phiên thảo luận về tác động của PGS đến sự phát triển hữu cơ tại Châu Á. Các chuyên gia đến từ Ấn Độ, Philippines, Sri Lanka và Việt Nam đã chia sẻ thành công, thách thức và bài học từ thực tiễn.
Hà Tĩnh đẩy mạnh nông nghiệp thông minh thích ứng khí hậu cực đoan

Hà Tĩnh đẩy mạnh nông nghiệp thông minh thích ứng khí hậu cực đoan

Biến đổi khí hậu đang tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp Hà Tĩnh, với những đợt nắng nóng gay gắt, rét đậm rét hại và mưa lũ bất thường. Trước thực tế này, nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hữu cơ và đa dạng hóa nuôi trồng đã được triển khai, giúp nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và giảm thiểu rủi ro.
Nông nghiệp hữu cơ qua thời "lẻ bóng bơ vơ" một mình - Bài 4: Đột phá chính sách, vươn mình ra biển lớn

Nông nghiệp hữu cơ qua thời "lẻ bóng bơ vơ" một mình - Bài 4: Đột phá chính sách, vươn mình ra biển lớn

Từ những nỗ lực cá nhân đến sự hợp lực của cộng đồng, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đang đứng trước cơ hội vàng để định hình lại vị thế trên bản đồ nông sản toàn cầu. Đây là câu chuyện về tầm nhìn xa, về khát vọng đưa hạt gạo, rau quả, và đặc sản hữu cơ của Việt Nam không chỉ chinh phục thị trường nội địa mà còn khẳng định thương hiệu trên trường quốc tế, góp phần xây dựng một nền nông nghiệp thịnh vượng và bền vững cho muôn đời sau.
Bắc Kạn: Sản xuất hữu cơ là ưu tiên lựa chọn đối với ngành nông nghiệp

Bắc Kạn: Sản xuất hữu cơ là ưu tiên lựa chọn đối với ngành nông nghiệp

Bắc Kạn là địa phương có tiềm năng để phát triển nông nghiệp hữu cơ rất lớn vì có những điều kiện rất tốt để sản xuất nông nghiệp hữu cơ với các yếu tố về đất đai, không khí, nguồn nước chưa bị ô nhiễm, đáp ứng được các tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ.
Sự khác biệt giữa nông nghiệp thông thường và nông nghiệp hữu cơ?

Sự khác biệt giữa nông nghiệp thông thường và nông nghiệp hữu cơ?

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và mối quan tâm ngày càng tăng về an toàn thực phẩm, sự khác biệt giữa nông nghiệp thông thường và nông nghiệp hữu cơ ngày càng trở nên quan trọng. Hai phương thức canh tác này có những triết lý và phương pháp tiếp cận khác nhau, ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe con người và chất lượng sản phẩm.
Gạo hữu cơ có thực sự sạch, chất lượng?

Gạo hữu cơ có thực sự sạch, chất lượng?

Gạo hữu cơ đang chiếm được nhiều sự quan tâm của người tiêu dùng thông thái và ngày càng lớn mạnh, cuộc sống hiện đại với thu nhập ngày càng được nâng cao khiến người tiêu dùng chú trọng nhiều hơn đến sức khỏe.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Dấu ấn 8 thập kỷ ngành Nông nghiệp và Môi trường: Kế thừa và đổi mới vì phát triển xanh, bền vững

Dấu ấn 8 thập kỷ ngành Nông nghiệp và Môi trường: Kế thừa và đổi mới vì phát triển xanh, bền vững

80 năm trước, vào ngày 14/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký quyết nghị thành lập Bộ Canh nông, tiền thân của ngành Nông nghiệp và Môi trường hiện nay. Trải qua tám thập kỷ xây dựng và phát triển, ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam từng bước khẳng định vai trò nền tảng trong phát triển kinh tế, định hướng tới nông nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh.
Cà phê Việt Nam trước biến đổi khí hậu: Thách thức và giải pháp thích ứng

Cà phê Việt Nam trước biến đổi khí hậu: Thách thức và giải pháp thích ứng

Trước những diễn biến khó lường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã phối hợp cùng Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên triển khai chương trình “Canh tác cà phê thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu”.
Canh tác hữu cơ để phát triển nông nghiệp bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Canh tác hữu cơ để phát triển nông nghiệp bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Đại học Cần Thơ (ĐHCT) vừa tổ chức Hội thảo quốc tế “Nông nghiệp hữu cơ - Sản xuất bền vững (ISOP 2025)” từ ngày 4 đến 6/11, trong khuôn khổ Nghị định thư “Nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp khoa học, công nghệ và thị trường cho sản xuất lúa gạo hữu cơ ở Đồng bằng sông Cửu Long”, hợp tác giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức.
Chuẩn hóa khảo nghiệm DUS giống khoai tây - Bài 2: Nền tảng phát triển giống cây trồng Việt Nam

Chuẩn hóa khảo nghiệm DUS giống khoai tây - Bài 2: Nền tảng phát triển giống cây trồng Việt Nam

Khảo nghiệm DUS (tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định) là bước quan trọng trong đánh giá, bảo hộ và thương mại hóa giống cây trồng, đảm bảo giống có tính khác biệt, đồng nhất và ổn định qua các thế hệ.
Hoàn thiện mô hình quản lý và nhận diện thương hiệu “Mắc ca Lâm Đồng”

Hoàn thiện mô hình quản lý và nhận diện thương hiệu “Mắc ca Lâm Đồng”

Thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản địa phương, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng đang khẩn trương lấy ý kiến hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý, mô hình nhận diện thương hiệu và quy chuẩn sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng”. Đây là bước quan trọng nhằm khẳng định vị thế, chất lượng và giá trị đặc trưng của hạt mắc ca – sản phẩm tiềm năng của vùng đất cao nguyên trù phú.
Tìm giải pháp nâng cao giá trị chuỗi sản xuất ngành sắn

Tìm giải pháp nâng cao giá trị chuỗi sản xuất ngành sắn

Với mục tiêu đến năm 2030 kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam đạt 1,8-2,0 tỷ USD, hướng tới 2,5 tỷ USD vào năm 2050. Bên cạnh đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu nông nghiệp xanh, sinh thái và kinh tế tuần hoàn.
Hải Phòng: Đột phá nông nghiệp vụ đông bằng KHCN, hướng tới hiệu quả và bền vững

Hải Phòng: Đột phá nông nghiệp vụ đông bằng KHCN, hướng tới hiệu quả và bền vững

Nhằm tìm kiếm các giải pháp đột phá, hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây vụ Đông. Trung tâm Khuyến nông thành phố Hải Phòng đã tổ chức Tọa đàm “Giải pháp khoa học – công nghệ phát triển cây vụ đông hiệu quả, bền vững”.
Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Theo ông Đặng Huy Đông, Trưởng Ban Vận động thành lập Hiệp hội chuyển đổi xanh Việt Nam (VGA), niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh, chỉ có thể được xây dựng khi các chủ thể tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình minh bạch và cam kết phát triển bền vững.
Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Để bảo vệ và cải tạo đất các địa phương cần tái cơ cấu ngành lúa gạo (giảm diện tích lúa độc canh; phát triển mô hình xen canh, đa canh; tăng cường lúa chất lượng cao); áp dụng khoa học công nghệ và nông nghiệp thông minh (nông nghiệp thông minh, chính xác; phát triển giống lúa thích ứng; thúc đẩy một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp).
Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng lộ trình tiến tới ngừng nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất carbosulfan và benfuracarb (thuộc nhóm thuốc trừ sâu) tại Việt Nam.
Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ không chỉ là một phương thức canh tác mà còn là một hệ thống giá trị, trong đó sự công bằng đóng vai trò then chốt. Nguyên tắc về sự công bằng trong nông nghiệp hữu cơ vượt ra ngoài phạm vi kinh tế, bao gồm cả sự công bằng về xã hội, môi trường và đạo đức. Nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững, không chỉ mang lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng mà còn đảm bảo quyền lợi và phúc lợi cho tất cả các bên liên quan, bao gồm cả môi trường và các thế hệ tương lai.
Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng (Care), đôi khi còn được gọi là nguyên tắc phòng ngừa (Precautionary Principle), là một trong bốn nguyên tắc cốt lõi của nông nghiệp hữu cơ, bên cạnh các nguyên tắc về sức khỏe, sinh thái và công bằng.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính