Để ngành chè Việt Nam thực sự bứt phá về chất lượng và sản lượng, từng bước giữ vị thế vững chắc trên thị trường quốc tế, cần đẩy mạnh sản xuất chè an toàn hướng theo hữu cơ, chất lượng cao. |
“Kết nối sản xuất và tiêu thụ chè chất lượng cao” là chủ đề của Diễn đàn do Cục Trồng trọt, Hội Làm vườn Việt Nam, Báo Nông nghiệp Việt Nam và Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc tổ chức tại Phú Thọ, sáng ngày 5/11/2024. Tham gia diễn đàn có đại diện các cơ quan, ban ngành ở trung ương, và các hội ngành nghề.
Theo ông Nguyễn Quốc Mạnh Phó Cục trưởng Cục trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết, diện tích chè cả nước năm 2023 đạt hơn 122.000 ha, giảm khoảng 12.000 ha so với năm 2015, tốc độ giảm bình quân 0,32%/năm. Nguyên nhân do Lâm Đồng và một số tỉnh miền núi phía Bắc đã chuyển đổi diện tích chè già cỗi, giống cũ, năng suất và chất lượng thấp sang cây trồng khác, đặc biệt chuyển đổi sang cây ăn quả tại các tỉnh miền núi phía Bắc.
Trái ngược với diện tích, năng suất chè tăng từ 85,9 tạ/ha lên 100,3 tạ/ha trong khoảng thời gian này. Điều này đạt được là do thay đổi cơ cấu giống và kỹ thuật canh tác. Tuy diện tích giảm nhưng do năng suất tăng nên sản lượng chè năm 2022 đạt 1,125 triệu tấn, tăng 125.000 tấn so với năm 2015.
Năm 2023, xuất khẩu chè của Việt Nam đạt khoảng 121.000 tấn, trị giá 211 triệu USD, giảm 17% về lượng và 11% về giá trị so với năm 2022. Giá chè xuất khẩu trung bình trong năm 2023 ước đạt 1.737 USD/tấn, tăng 7,3% so với năm 2022.
Dự báo sản lượng xuất khẩu chè của Việt Nam đến năm 2030 đạt 136,5 nghìn tấn, tăng trung bình 0,82%/năm, chiếm khoảng 80% sản lượng chè sản xuất ra. Các thị trường chính của sản phẩm chè Việt Nam vẫn là Pakistan, Trung Quốc, Nga, Indonesia,… và chuyển hướng sang xuất khẩu các sản phẩm chè chất lượng cao ở thị trường EU…
Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu chè đạt 62 nghìn tấn, trị giá 106 triệu USD, tăng 28,3% về lượng và tăng 30% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Giá bình quân chè xuất khẩu đạt 1.710,0 USD/tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2023.
Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng, Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) phát biểu tại điễn đàn. |
Hiện nay nhiều chính sách liên quan đến sản xuất chè an toàn, chất lượng cao đã được ban hành như: Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2018 Thủ tướng Chính phủ về nông nghiệp hữu cơ; Thông tư số 16/2019/TT-BNNPTNT ngày 01 tháng 11 năm 2019 quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ về nông nghiệp hữu cơ; Chỉ thị số 711/CT-BNN-BVTV ngày 01/3/2013 về việc đẩy mạnh sản xuất chè an toàn;…
Đến nay, Cục Trồng trọt đã cấp giấy hoạt động chứng nhận cho 14 tổ chức chứng nhận VietGAP cho chè búp tươi trên cả nước.
Thái Nguyên toàn tỉnh có trên 80% diện tích chè áp dụng sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ (chủ yếu tại các vùng sản xuất chè tập trung), trong đó 5.068ha sản xuất an toàn được cấp chứng nhận VietGAP và 80ha được cấp chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ. Phú Thọ diện tích chè được cấp chứng nhận an toàn đạt 4,1 nghìn ha. Lào Cai diện tích chè sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ là 696,94 ha, sản xuất theo quy trình VietGAP là trên 100 ha. Hà Giang tổng diện tích chè ở tỉnh được chứng nhận theo các tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ là trên 11.600ha/65 vùng, chiếm khoảng 61,25% diện tích. Thông qua việc cấp chứng nhận theo các tiêu chuẩn GAP, tỉnh đã thực hiện liên kết trên 9.200 hộ trồng chè riêng lẻ để hình thành 40 cơ sở sản xuất chè VietGAP và liên kết với 24 cơ sở, doanh nghiệp, hợp tác xã chế biến chè để hình thành chuỗi liên kết sản xuất chè hữu cơ. Yên Bái có 7.743 ha trồng chè, trong đó có 626,3 ha diện tích được chứng nhận theo các tiêu chuẩn hữu cơ (266,84 ha), RA (119,7 ha) và VietGap (239,75 ha). Lâm Đồng đến cuối năm 2022, có trên 300 ha diện tích chè cho sản lượng trên 6 nghìn tấn chè được áp dụng theo tiêu chuẩn VietGAP.
Đến năm 2030, diện tích chè được chứng nhận sạch, an toàn (hữu cơ, GAP, VietGAP và tương đương) đạt khoảng trên 70% tập trung tại các vùng sản xuất trọng điểm như Thái Nguyên, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Nghệ An và Lâm Đồng. Ứng dụng công nghệ cao trong các khâu sản xuất (tưới nước, bón phân, thu hái, bảo quản, chế biến...) nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, ổn định các tiêu chí sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Ông Hoàng Vĩnh Long, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam. |
Ông Hoàng Vĩnh Long, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam cho biết: Việt Nam là một nước sản xuất và xuất khẩu chè đứng thứ 5 trên thế giới. Ngành chè nước ta có trên 1,5 triệu người trực tiếp tham gia trồng và sản xuất chè và khoảng 2,5 triệu người gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè. Chè nước ta được xuất đến trên 70 quốc gia vùng lãnh thổ nhưng giá chè xuất khẩu bình quân chỉ bằng 65% giá bình quân của các nước hàng đầu về xuất khẩu chè và chỉ bằng 55% giá chè xuất khẩu bình quân của Ấn Độ và Sri Lanka. Mặc dù với sản lượng và số lượng xuất khẩu lớn nhưng giá trị thu được của mặt hàng này chưa cao, tính cạnh tranh của mặt hàng còn thấp, giá cả sản phẩm không ổn định trên thị trường quốc tế và vẫn còn phụ thuộc vào một số thị trường chính.
Theo Hiệp hội Chè Việt Nam nhận định, ngành chè Việt Nam đang phát triển theo hướng bền vững với nhiều đơn vị sản xuất áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế. Đa số các doanh nghiệp chè hiện nay đều ý thức và nắm bắt được xu hướng tiêu dùng cũng như thách thức từ các rào cản kỹ thuật ở thị trường nhập khẩu. Đồng thời, thị trường nội địa cũng ghi nhận sản lượng tiêu dùng ngày càng tăng khi người tiêu dùng ngày càng ưu tiên sản phẩm có chất lượng, uy tín và nguồn gốc rõ ràng.
Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường, Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, thông tin, sản phẩm chè khi lưu thông cần đảm bảo các nguyên tắc quản lý an toàn thực phẩm theo Luật An toàn thực phẩm.
Trong đó, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sản xuất chè phải chịu trách nhiệm về an toàn đối với thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, có phương án quản lý an toàn thực phẩm trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, quy định do cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do tổ chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng.
Việc quản lý an toàn thực phẩm phải được thực hiện trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm; phải bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp liên ngành. Đồng thời, công tác quản lý cần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Supe Phốt phát & Hóa chất Lâm Thao, ông Nguyễn Quốc An, mong muốn đem đến những sản phẩm tốt nhất phục vụ nền nông nghiệp xanh, Supe Lâm Thao đang tiếp tục nghiên cứu đưa ra các “Giải pháp canh tác Xanh - Nâng cao sức khỏe Đất - Giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng biến đổi khí hậu”. |
Phát biểu tại diễn đàn, Ông Nguyễn Quốc An, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Supe Phốt phát & Hóa chất Lâm Thao chia sẻ: Riêng đối với cây chè, Supe Lâm Thao đã có mô hình trình diễn phân bón hiệu quả và đang triển khai áp dụng theo giải pháp “Phân bón vi sinh Lâm Thao - Giảm phát thải và thích ứng biến đổi khí hậu-Nâng cao sức khoẻ đất” tại Thái Nguyên, sử dụng phân bón NPK-S*M1 vi sinh Lâm Thao 12-5-10+14S và HCK vi sinh Lâm Thao 3-5-2+2S+TE. Lượng phân bón sử dụng trong mô hình giảm 10-13% so với phân bón thông thường. Thời điểm hiện tại, cây chè áp dụng giải pháp trên phát triển tốt, khỏe mạnh, ra búp nhanh và mập; sản phẩm chè có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn sạch.
Với mong muốn đem đến những sản phẩm tốt nhất phục vụ nền nông nghiệp xanh, Supe Lâm Thao đang tiếp tục nghiên cứu đưa ra các “Giải pháp canh tác Xanh - Nâng cao sức khỏe Đất - Giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng biến đổi khí hậu”. Theo đó, sẽ cung cấp giải pháp canh tác cho cây chè nói riêng và các loại cây trồng khác nói chung - Ông Nguyễn Quốc An nói.
Các diễn giả giải đáp những thắc mắc, khó khăn, vướng mắc của địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân trong quá trình sản xuất, chế biến, xuất khẩu chè an toàn, chất lượng cao. |
Theo các chuyên gia, những giải pháp này không thể thực hiện trong “một sớm một chiều” mà là cả hành trình đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng nghỉ. Nhưng ngay từ bây giờ việc thay đổi tư duy thời đại mới, minh bạch, trách nhiệm sẽ mở ra một con đường thương mại mới cho ngành chè Việt Nam trong tương lai không xa.
Tuy nhiên, để ngành chè Việt Nam thực sự bứt phá về chất lượng và sản lượng, từng bước giữ vị thế vững chắc trên thị trường quốc tế, cần đẩy mạnh sản xuất chè hữu cơ an toàn, chất lượng cao; nâng cao năng lực chế biến chè; tăng cường quảng bá thương hiệu sản phẩm chè thông qua các chương trình xúc tiến thương mại trong nước và quốc tế…
Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ chè chất lượng cao” là một trong những hoạt động thiết thực nhằm thực hiện Chiến lược phát triển trồng trọt đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 30/12/2023, trong đó, riêng với cây chè, tập trung chuyển đổi cơ cấu giống chè mới đến năm 2025 có khoảng 70% diện tích chè giống mới, nâng cơ cấu giống cho sản xuất chè xanh chất lượng cao khoảng 50%, chè Olong và các loại chè chất lượng cao khác khoảng 20%. Diễn đàn được tổ chức với mục đích truyền thông, phổ biến rộng rãi bộ giống chè mới, kinh nghiệm đổi mới bộ giống chè, áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến và chế biến các sản phẩm chè. Kinh nghiệm chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ cây trồng khác sang trồng chè chất lượng cao. Các yêu cầu thị trường đối với sản phẩm chè, đồng thời giải đáp những thắc mắc, khó khăn, vướng mắc của địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân trong quá trình sản xuất, chế biến, xuất khẩu chè an toàn, chất lượng cao. |