Chủ nhật 16/11/2025 01:41Chủ nhật 16/11/2025 01:41 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Kiến thức nhà nông

Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Hiện nay, trong quá trình canh tác, người trồng cà phê phải đối mặt với nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng của sản phẩm. Trong số đó, bệnh hại và dịch hại là những vấn đề đã và đang làm đau đầu cả những người trồng cà phê và các cấp quản lý bệnh dịch hại cây trồng.
Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ
Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ - Ảnh minh họa.

Ứng dụng sinh học trong kiểm soát bệnh dịch

Việc sử dụng thuốc hóa học để kiểm soát bệnh hại và dịch hại hiện vẫn đang là biện pháp tối ưu nhất đối với người trồng cà phê ở Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy biện pháp hóa học cũng đã và đang mang lại nhiều hệ lụy cho con người và môi trường. Từ những năm 80 của thế kỷ trước, các nước như Ấn Độ và Brazil đã sử dụng Trichoderma để kiểm soát bệnh hại trên cà phê. Đến nay, nhiều nước khác trên thế giới như Kenya, Mỹ, nhiều nước châu Âu như Tây Ban Nha, Đức, Đan Mạch, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ… đã sử dụng biện pháp sinh học trong kiểm soát bệnh hại và dịch hại trên cà phê với mong muốn khắc phục những nhược điểm của việc sử dụng thuốc hóa học và kết quả thu được cũng rất khả quan.

Các báo cáo trên thế giới cho thấy nhiều tiềm năng có thể ứng dụng biện pháp sinh học bằng cách sử dụng các sinh vật đối kháng. Qua đó, cho thấy ở Việt Nam, khi cây cà phê cũng bị tấn công bởi các bệnh hại và dịch hại có nguyên nhân tương tự, chúng ta cũng có thể sử dụng biện pháp này. Tuy nhiên, người trồng cà phê cũng như cấp quản lý bệnh dịch hại cần xác định rõ nguyên nhân của bệnh hại và dịch hại để có được biện pháp kiểm soát phù hợp.

Ngoài biện pháp sử dụng sinh vật đối kháng như trên, hiện nay, các nước trên thế giới đã và đang nghiên cứu phát triển nhiều biện pháp sinh học mới như trồng giống cà phê kháng bệnh dịch ở Ethiopia hay như sử dụng các chất chiết xuất sinh học như hardin từ Erwinia amylovora để trừ bệnh tàn lụi do Erwinia, rệp vừng, các bệnh do vi khuẩn, các loại tuyến trùng hại rễ… ở Đức, Tây Ban Nha và Mexico. Biện pháp trồng xen canh ca cao với cà phê ở Philippine giúp giảm sự ảnh hưởng của côn trùng và các bệnh hại như bệnh gỉ sắt. Tuy nhiên việc trồng xen canh cũng cần phải được tìm hiểu kỹ, ví dụ như xen canh cà phê với chuối sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm tuyến trùng vào cà phê do chuối là vật chủ tốt cho loài tuyến trùng Pratylenchus coffeae. Các biện pháp nhằm giúp tăng cường khả năng phát triển của cây nhờ hệ rễ được cộng sinh với nấm Phlebopus portentosus hay Glomus hoặc xử lý hạt cà phê với Trichoderma trước khi ươm giống cũng đang là những phương pháp được nhiều nước ứng dụng.

Ứng dụng sinh học trong bảo quản sản phẩm sau thu hoạch

Giống như những loại nông sản khác, cà phê sau khi thu hoạch cũng có thể bị hư hỏng bởi nhiều nguyên nhân vật lý, hóa học và sinh học khác nhau. Trong đó, có thể ứng dụng biện pháp sinh học để kiểm soát các tác nhân sinh học gây hư hỏng hạt cà phê (chủ yếu là sự tấn công của các loài nấm hại).

Một số nấm hại hạt cà phê được thế giới chú ý là nấm Fusarium concolor Krug tạo dạng nấm sợi màu hơi đỏ trên hạt. Chúng có thể tạo độc tố nấm mycotoxin làm ảnh hưởng đến chất lượng của nước uống cà phê khi sử dụng. Hay như nấm Aspergillus ochraceus, khi nhiễm trên hạt, sẽ tổng hợp độc tố orchratoxin A gây ảnh hưởng trên thần kinh, hệ miễn dịch… của người sử dụng. Để kiểm soát các mối nguy tiềm tàng từ những loài nấm này cũng như ức chế sự phát triển của chúng trên hạt cà phê, người ta có thể sử dụng các vi sinh vật đối kháng như Bacillus subtilis hay Trichoderma. Ngoài Bacillus subtilis và Trichoderma, một loài nấm khác là Cladosporium cladosporioides (Fres) de Vries. cũng được sử dụng như một nhân tố kiểm soát sinh học trên hạt cà phê nhằm mục tiêu kiểm soát các nấm hại như Fusarium sp.,Penicillium sp., Apergillus spp.

Ứng dụng trong tận dụng phế liệu café

Không phải chỉ riêng ở nước ta, các nước trên thế giới cũng gặp phải một tình trạng tương tự là sự thừa thải của các nguồn phế phụ liệu trong sản xuất cà phê như vỏ cà phê và bã cà phê nhân sau tách chiết. Trong đó, lượng vỏ cà phê khổng lồ là vấn đề quan trọng hơn do chúng không tập trung, do đó, dẫn đến khó kiểm soát và xử lý. Qua khảo sát thực tế cho thấy hầu hết các hộ trồng cà phê xử lý lượng vỏ cà phê sau khi sát theo cách như để khô tự nhiên rồi đốt bỏ, bón trực tiếp vào gốc cây (gồm cả cà phê) chưa qua ủ hoai... Với các nhà máy chế biến thì có thể tận dụng nguồn phế liệu này để làm nhiên liệu nhưng với các nông hộ thì khó thực hiện được do nhiều nguyên nhân như không có bếp chuyên dụng hoặc các nhược điểm tương tự như khi sử dụng củi để đốt lò. Chỉ một lượng rất nhỏ vỏ cà phê được sử dụng làm nhiên liệu ở quy mô nông hộ.

Trong khi đó, nguồn nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất phân hữu cơ cũng như nhu cầu phân hữu cơ cho nông nghiệp nói chung và người sản xuất cà phê nói riêng hiện tại rất lớn để bổ sung nguồn dinh dưỡng hữu cơ tự nhiên vào đất. Do đó, việc đốt bỏ vỏ cà phê rõ ràng đã gây lãng phí nguồn nguyên liệu này. Việc bón trực tiếp vỏ cà phê chưa qua ủ hoai cho cây trồng xem ra cũng còn nhiều vấn đề phải lưu ý như thời gian phân hủy chậm, quá trình phân hủy sẽ gây hư hại hệ rễ và gốc cây. Thêm vào đó, nếu nguồn vỏ có mang tàn dư của các mầm bệnh và/hoặc dịch bệnh cho cây cà phê thì hậu quả tất yếu là sự phát tán nguồn bệnh này trở lại cây trồng.

Đi tiên phong trong việc nghiên cứu tân dụng vỏ cà phê trên thế giới thì có thể kể đến các nước như Ấn Độ, Iraq hay Colombia. Ở những nước này, người ta sử dụng lại nguồn phế liệu từ sản xuất cà phê để tạo những sản phẩm phục vụ việc canh tác như phân bón hữu cơ, đất sạch… Đặc biệt hơn, họ cũng đã tận dụng vỏ cà phê để làm nguyên liệu kết hợp với phân gà để sản xuất được các sản phẩm mang bào tử của những chủng nấm đối kháng nhằm phục vụ lại việc canh tác cà phê. Ở Ấn Độ, từ vỏ cà phê, người ta đã thu được các sản phẩm Trichoderma harzianum và T. virens đạt hiệu quả 1011 – 1012 CFU/g cơ chất. Hay cao cấp hơn nữa, người ta dùng vỏ cà phê để làm cơ chất sản xuất các loại nấm ăn như nấm bào ngư (Pleurotus florida) ở Iraq, Colombia và nấm đông cô (Lentinula edodes) ở Colombia.

Lưu ý khi ứng dụng nấm đối kháng Trichoderma trong sản xuất cafe

Hiện nay, việc sử dụng các chế phẩm sinh học để kiểm soát bệnh hại và dịch hại đã phổ biến ở một số nơi trong nước trên một số loại cây trồng. Dù là loại cây gì, kiểm soát tác nhân nào và bằng chế phẩm sinh học nào thì cũng có những nguyên tắc sinh học chung. Trong đó, cần lưu ý rằng hầu hết các sinh vật trong các chế phẩm sinh học cũng cần có chất dinh dưỡng để tồn tại và phát huy hiệu quả. Do đó, việc sử dụng chế phẩm sinh học mà không cung cấp nguồn dinh dưỡng thích hợp cho chúng đôi khi chỉ thêm lãng phí.

Nhiều nghiên cứu đã cho thấy việc sử dụng các chất dinh dưỡng đa lượng (NPK) vô cơ quá mức cũng làm giảm hiện diện của các loài vi sinh vật hữu hiệu, đặc biệt là Trichoderma. Sử dụng phân vô cơ càng tăng thì lượng Trichoderma trong đất càng giảm. Thêm vào đó, người ta cũng đã chứng minh được rằng nếu thiếu phân hữu cơ thì số lượng Trichoderma trong đất cũng giảm. Điều này rõ ràng rằng chúng ta cần cung cấp cho cây NPK vừa phải và cần thiết phải bổ sung vào đất các nguồn dinh dưỡng hữu cơ, vừa có lợi cho cây trồng vừa có lợi cho các vi sinh vật hữu hiệu.

Trong quá trình sử dụng các sản phẩm vi nấm đối kháng trong sản xuất cà phê, quan trọng hơn hết vẫn là sự am hiểu của người trồng về các đặc điểm thực tế trong vườn của mình cũng như các kiến thức cơ bản về các chế phẩm vi nấm này. Đặc điểm thực tế của vườn chủ yếu là tình trạng sinh lý của cây, xác định các triệu chứng bệnh hại chính xác và mức độ bệnh hại. Việc sử dụng chế phẩm nấm đối kháng Trichoderma chỉ có thể giúp ngăn ngừa sự lây lan mầm bệnh cũng như giúp cây trồng tăng cường sức đề kháng thông qua việc giúp cây tăng cường khả hấp thu dinh dưỡng, khỏe mạnh cũng như ngăn chặn sự tấn công của mầm bệnh vào cây. Không thể có một loài vi nấm Trichoderma nào hay một sản phẩm sinh học chứa vi nấm Trichoderma mà có thể giúp kiểm soát hoàn toàn các loại bệnh do nhiều loại nấm hại khác nhau. Bên cạnh đó, với cùng một tác nhân gây hại, các chế phẩm vi nấm khác nhau sẽ cho những hiệu quả kiểm soát khác nhau. Sự khác biệt này do có sự khác nhau về nguồn gốc sản phẩm, chủng loài vi nấm Trichoderma có trong sản phẩm. Do đó, để việc ứng dụng vi nấm đối kháng này có hiệu quả trong sản xuất cà phê thì cần phải biết chính xác nguyên nhân gây bệnh hại để từ đó chọn lựa chế phẩm vi nấm phù hợp./.

Bài liên quan

Tìm hiểu về tiêu chuẩn cà phê hữu cơ

Tìm hiểu về tiêu chuẩn cà phê hữu cơ

Câu chuyện cà phê hữu cơ bắt đầu từ những năm 1980 - 1990 của thế kỷ trước, khi trên thế giới xuất hiện loại cà phê độc đáo khác biệt là Blue Mountain ở Jamaica, hay Kopi Luwak của Indonesia mang lại giá trị lợi nhuận kinh tế cao, đây chính là lý do đưa đến xu hướng chuyển đổi cà phê canh tác truyền thống sang hướng canh tác hữu cơ.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Nếp Cay Nọi - đặc sản vùng biên xứ Thanh

Nếp Cay Nọi - đặc sản vùng biên xứ Thanh

Nhắc đến nếp Cay Nọi mọi người sẽ nghĩ ngay là loại nếp đặc sản chỉ có ở vùng biên giới Thanh Hóa. Việc mở rộng trồng lúa nếp Cay Nọi trong những năm gần đây đang mang lại thu nhập ổn định cho người dân xã biên giới Quang Chiểu.
Những điểm nổi bật của sản phẩm OCOP tại Hội chợ mùa Thu 2025

Những điểm nổi bật của sản phẩm OCOP tại Hội chợ mùa Thu 2025

Chương trình OCOP là một sáng kiến quan trọng của Chính phủ Việt Nam nhằm phát triển kinh tế khu vực nông thôn, thông qua việc phát huy lợi thế địa phương, nguồn lao động, văn hoá - truyền thống địa phương để tạo ra các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có thương hiệu rõ ràng và có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Tôn vinh sắc vàng mùa gặt, lan tỏa bản sắc văn hóa Mường

Tôn vinh sắc vàng mùa gặt, lan tỏa bản sắc văn hóa Mường

Trong không khí hân hoan của mùa lúa chín, UBND xã Thượng Cốc, tỉnh Phú Thọ long trọng tổ chức Lễ hội ruộng bậc thang Miền Đồi năm 2025. Đây là năm thứ hai liên tiếp sự kiện được tổ chức, trở thành điểm nhấn trong chuỗi hoạt động văn hóa - du lịch của địa phương, thu hút hàng nghìn người dân và du khách đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp mùa vàng rực rỡ của vùng đất Mường. Không chỉ là lễ hội của mùa gặt, đây còn là dịp để tôn vinh giá trị lao động, khơi dậy niềm tự hào và tình yêu quê hương trong mỗi người dân Thượng Cốc.
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và lịch sử của Sâm núi Dành

Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và lịch sử của Sâm núi Dành

Núi Dành, nằm ở huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang (cũ), nay là Bắc Ninh từ lâu đã nổi tiếng với loại sâm quý được mệnh danh là “sâm tiến vua”. Để hiểu được vì sao sâm núi Dành lại quý hiếm như vậy, cần phải tìm hiểu sâu về đặc điểm chất đất và khí hậu khác biệt của vùng đất này, hai yếu tố then chốt quyết định giá trị của cây sâm Nam.
Sâm “tiến vua” và giai thoại về một loài cây huyền thoại

Sâm “tiến vua” và giai thoại về một loài cây huyền thoại

Núi Dành là dãy núi lớn thứ hai của vùng trung du Tân Yên, tỉnh Bắc Ninh, sau núi Đót ở xã Phúc Sơn. Đỉnh cao nhất là Chung Sơn cao 117m so với mặt nước biển. Với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, không khí trong lành, trải qua hàng ngàn năm, núi Dành gìn giữ trong mình một loại dược liệu quý hiếm: cây Sâm Nam.
Phú Mỹ hợp tác cùng Enfarm: Bước tiến trong chuyển đổi số nông nghiệp Việt Nam

Phú Mỹ hợp tác cùng Enfarm: Bước tiến trong chuyển đổi số nông nghiệp Việt Nam

Ngày 27/10, Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo - Phú Mỹ) đã chính thức triển khai giai đoạn đầu hợp tác chuyển đổi số nông nghiệp cùng Enfarm - đơn vị tiên phong trong công nghệ nông nghiệp số.
Đất trồng bị chua: Từ nguyên nhân đến giải pháp bền vững

Đất trồng bị chua: Từ nguyên nhân đến giải pháp bền vững

Đất chua không chỉ làm giảm hiệu quả phân bón mà còn kìm hãm sinh trưởng, gây độc rễ và kéo theo sụt giảm năng suất. Hiểu đúng nguyên nhân, tác hại và chọn giải pháp phù hợp sẽ giúp người trồng phục hồi độ phì, ổn định năng suất và chất lượng nông sản.
Một giống lúa mới đầy hứa hẹn

Một giống lúa mới đầy hứa hẹn

Trong những năm gần đây, nhiều giống lúa mới đã được chọn tạo và đưa vào sản xuất nhằm đáp ứng yêu cầu kép: vừa cho năng suất cao, vừa có chất lượng gạo tốt, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước. Trong số đó, giống lúa TBR97 do Công ty Giống cây trồng Thái Bình nghiên cứu, lai tạo đã nhanh chóng khẳng định vị trí trên đồng ruộng ở nhiều tỉnh, nhờ đặc điểm nổi bật: năng suất ổn định.
Đặt niềm tin, kỳ vọng lớn vào thế hệ trẻ ngành Nông nghiệp và Môi trường

Đặt niềm tin, kỳ vọng lớn vào thế hệ trẻ ngành Nông nghiệp và Môi trường

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) Trần Đức Thắng kêu gọi mỗi đoàn viên, thanh niên phấn đấu trở thành hình mẫu về bản lĩnh và khát vọng cống hiến vì sự phát triển xanh của đất nước.
Khi hạt gạo Việt bước vào kỷ nguyên số

Khi hạt gạo Việt bước vào kỷ nguyên số

Tận dụng những lợi thế của mạng xã hội trong việc ứng dụng bán hàng nông sản. Đây không chỉ là hướng đi mới mà còn tạo ra cơ hội phát triển cho nông sản Việt, khi các sản phẩm được các giới thiệu và chốt đơn ngay trong phiên livestream.
Cách nhận biết, bảo tồn và giữ gìn nguồn gen gốc "quốc bảo" Việt Nam

Cách nhận biết, bảo tồn và giữ gìn nguồn gen gốc "quốc bảo" Việt Nam

Sâm Ngọc Linh - “quốc bảo” của Việt Nam đang đối mặt nguy cơ lai tạp và mất nguồn gen gốc. Việc nhận diện đúng, kiểm định DNA và bảo tồn vùng trồng nguyên chủng là chìa khóa để giữ gìn di sản sinh học vô giá này.
Muốn giảm phát thải, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ

Muốn giảm phát thải, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ

Muốn giảm phát thải, hệ thống thủy lợi phải được đầu tư đồng bộ, vì chỉ khi rút nước kịp thời mới có thể thực hiện được các kỹ thuật canh tác phát thải thấp.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính