Thứ ba 19/08/2025 04:30Thứ ba 19/08/2025 04:30 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Kiến thức nhà nông

Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Hiện nay, trong quá trình canh tác, người trồng cà phê phải đối mặt với nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng của sản phẩm. Trong số đó, bệnh hại và dịch hại là những vấn đề đã và đang làm đau đầu cả những người trồng cà phê và các cấp quản lý bệnh dịch hại cây trồng.
Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ
Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ - Ảnh minh họa.

Ứng dụng sinh học trong kiểm soát bệnh dịch

Việc sử dụng thuốc hóa học để kiểm soát bệnh hại và dịch hại hiện vẫn đang là biện pháp tối ưu nhất đối với người trồng cà phê ở Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy biện pháp hóa học cũng đã và đang mang lại nhiều hệ lụy cho con người và môi trường. Từ những năm 80 của thế kỷ trước, các nước như Ấn Độ và Brazil đã sử dụng Trichoderma để kiểm soát bệnh hại trên cà phê. Đến nay, nhiều nước khác trên thế giới như Kenya, Mỹ, nhiều nước châu Âu như Tây Ban Nha, Đức, Đan Mạch, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ… đã sử dụng biện pháp sinh học trong kiểm soát bệnh hại và dịch hại trên cà phê với mong muốn khắc phục những nhược điểm của việc sử dụng thuốc hóa học và kết quả thu được cũng rất khả quan.

Các báo cáo trên thế giới cho thấy nhiều tiềm năng có thể ứng dụng biện pháp sinh học bằng cách sử dụng các sinh vật đối kháng. Qua đó, cho thấy ở Việt Nam, khi cây cà phê cũng bị tấn công bởi các bệnh hại và dịch hại có nguyên nhân tương tự, chúng ta cũng có thể sử dụng biện pháp này. Tuy nhiên, người trồng cà phê cũng như cấp quản lý bệnh dịch hại cần xác định rõ nguyên nhân của bệnh hại và dịch hại để có được biện pháp kiểm soát phù hợp.

Ngoài biện pháp sử dụng sinh vật đối kháng như trên, hiện nay, các nước trên thế giới đã và đang nghiên cứu phát triển nhiều biện pháp sinh học mới như trồng giống cà phê kháng bệnh dịch ở Ethiopia hay như sử dụng các chất chiết xuất sinh học như hardin từ Erwinia amylovora để trừ bệnh tàn lụi do Erwinia, rệp vừng, các bệnh do vi khuẩn, các loại tuyến trùng hại rễ… ở Đức, Tây Ban Nha và Mexico. Biện pháp trồng xen canh ca cao với cà phê ở Philippine giúp giảm sự ảnh hưởng của côn trùng và các bệnh hại như bệnh gỉ sắt. Tuy nhiên việc trồng xen canh cũng cần phải được tìm hiểu kỹ, ví dụ như xen canh cà phê với chuối sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm tuyến trùng vào cà phê do chuối là vật chủ tốt cho loài tuyến trùng Pratylenchus coffeae. Các biện pháp nhằm giúp tăng cường khả năng phát triển của cây nhờ hệ rễ được cộng sinh với nấm Phlebopus portentosus hay Glomus hoặc xử lý hạt cà phê với Trichoderma trước khi ươm giống cũng đang là những phương pháp được nhiều nước ứng dụng.

Ứng dụng sinh học trong bảo quản sản phẩm sau thu hoạch

Giống như những loại nông sản khác, cà phê sau khi thu hoạch cũng có thể bị hư hỏng bởi nhiều nguyên nhân vật lý, hóa học và sinh học khác nhau. Trong đó, có thể ứng dụng biện pháp sinh học để kiểm soát các tác nhân sinh học gây hư hỏng hạt cà phê (chủ yếu là sự tấn công của các loài nấm hại).

Một số nấm hại hạt cà phê được thế giới chú ý là nấm Fusarium concolor Krug tạo dạng nấm sợi màu hơi đỏ trên hạt. Chúng có thể tạo độc tố nấm mycotoxin làm ảnh hưởng đến chất lượng của nước uống cà phê khi sử dụng. Hay như nấm Aspergillus ochraceus, khi nhiễm trên hạt, sẽ tổng hợp độc tố orchratoxin A gây ảnh hưởng trên thần kinh, hệ miễn dịch… của người sử dụng. Để kiểm soát các mối nguy tiềm tàng từ những loài nấm này cũng như ức chế sự phát triển của chúng trên hạt cà phê, người ta có thể sử dụng các vi sinh vật đối kháng như Bacillus subtilis hay Trichoderma. Ngoài Bacillus subtilis và Trichoderma, một loài nấm khác là Cladosporium cladosporioides (Fres) de Vries. cũng được sử dụng như một nhân tố kiểm soát sinh học trên hạt cà phê nhằm mục tiêu kiểm soát các nấm hại như Fusarium sp.,Penicillium sp., Apergillus spp.

Ứng dụng trong tận dụng phế liệu café

Không phải chỉ riêng ở nước ta, các nước trên thế giới cũng gặp phải một tình trạng tương tự là sự thừa thải của các nguồn phế phụ liệu trong sản xuất cà phê như vỏ cà phê và bã cà phê nhân sau tách chiết. Trong đó, lượng vỏ cà phê khổng lồ là vấn đề quan trọng hơn do chúng không tập trung, do đó, dẫn đến khó kiểm soát và xử lý. Qua khảo sát thực tế cho thấy hầu hết các hộ trồng cà phê xử lý lượng vỏ cà phê sau khi sát theo cách như để khô tự nhiên rồi đốt bỏ, bón trực tiếp vào gốc cây (gồm cả cà phê) chưa qua ủ hoai... Với các nhà máy chế biến thì có thể tận dụng nguồn phế liệu này để làm nhiên liệu nhưng với các nông hộ thì khó thực hiện được do nhiều nguyên nhân như không có bếp chuyên dụng hoặc các nhược điểm tương tự như khi sử dụng củi để đốt lò. Chỉ một lượng rất nhỏ vỏ cà phê được sử dụng làm nhiên liệu ở quy mô nông hộ.

Trong khi đó, nguồn nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất phân hữu cơ cũng như nhu cầu phân hữu cơ cho nông nghiệp nói chung và người sản xuất cà phê nói riêng hiện tại rất lớn để bổ sung nguồn dinh dưỡng hữu cơ tự nhiên vào đất. Do đó, việc đốt bỏ vỏ cà phê rõ ràng đã gây lãng phí nguồn nguyên liệu này. Việc bón trực tiếp vỏ cà phê chưa qua ủ hoai cho cây trồng xem ra cũng còn nhiều vấn đề phải lưu ý như thời gian phân hủy chậm, quá trình phân hủy sẽ gây hư hại hệ rễ và gốc cây. Thêm vào đó, nếu nguồn vỏ có mang tàn dư của các mầm bệnh và/hoặc dịch bệnh cho cây cà phê thì hậu quả tất yếu là sự phát tán nguồn bệnh này trở lại cây trồng.

Đi tiên phong trong việc nghiên cứu tân dụng vỏ cà phê trên thế giới thì có thể kể đến các nước như Ấn Độ, Iraq hay Colombia. Ở những nước này, người ta sử dụng lại nguồn phế liệu từ sản xuất cà phê để tạo những sản phẩm phục vụ việc canh tác như phân bón hữu cơ, đất sạch… Đặc biệt hơn, họ cũng đã tận dụng vỏ cà phê để làm nguyên liệu kết hợp với phân gà để sản xuất được các sản phẩm mang bào tử của những chủng nấm đối kháng nhằm phục vụ lại việc canh tác cà phê. Ở Ấn Độ, từ vỏ cà phê, người ta đã thu được các sản phẩm Trichoderma harzianum và T. virens đạt hiệu quả 1011 – 1012 CFU/g cơ chất. Hay cao cấp hơn nữa, người ta dùng vỏ cà phê để làm cơ chất sản xuất các loại nấm ăn như nấm bào ngư (Pleurotus florida) ở Iraq, Colombia và nấm đông cô (Lentinula edodes) ở Colombia.

Lưu ý khi ứng dụng nấm đối kháng Trichoderma trong sản xuất cafe

Hiện nay, việc sử dụng các chế phẩm sinh học để kiểm soát bệnh hại và dịch hại đã phổ biến ở một số nơi trong nước trên một số loại cây trồng. Dù là loại cây gì, kiểm soát tác nhân nào và bằng chế phẩm sinh học nào thì cũng có những nguyên tắc sinh học chung. Trong đó, cần lưu ý rằng hầu hết các sinh vật trong các chế phẩm sinh học cũng cần có chất dinh dưỡng để tồn tại và phát huy hiệu quả. Do đó, việc sử dụng chế phẩm sinh học mà không cung cấp nguồn dinh dưỡng thích hợp cho chúng đôi khi chỉ thêm lãng phí.

Nhiều nghiên cứu đã cho thấy việc sử dụng các chất dinh dưỡng đa lượng (NPK) vô cơ quá mức cũng làm giảm hiện diện của các loài vi sinh vật hữu hiệu, đặc biệt là Trichoderma. Sử dụng phân vô cơ càng tăng thì lượng Trichoderma trong đất càng giảm. Thêm vào đó, người ta cũng đã chứng minh được rằng nếu thiếu phân hữu cơ thì số lượng Trichoderma trong đất cũng giảm. Điều này rõ ràng rằng chúng ta cần cung cấp cho cây NPK vừa phải và cần thiết phải bổ sung vào đất các nguồn dinh dưỡng hữu cơ, vừa có lợi cho cây trồng vừa có lợi cho các vi sinh vật hữu hiệu.

Trong quá trình sử dụng các sản phẩm vi nấm đối kháng trong sản xuất cà phê, quan trọng hơn hết vẫn là sự am hiểu của người trồng về các đặc điểm thực tế trong vườn của mình cũng như các kiến thức cơ bản về các chế phẩm vi nấm này. Đặc điểm thực tế của vườn chủ yếu là tình trạng sinh lý của cây, xác định các triệu chứng bệnh hại chính xác và mức độ bệnh hại. Việc sử dụng chế phẩm nấm đối kháng Trichoderma chỉ có thể giúp ngăn ngừa sự lây lan mầm bệnh cũng như giúp cây trồng tăng cường sức đề kháng thông qua việc giúp cây tăng cường khả hấp thu dinh dưỡng, khỏe mạnh cũng như ngăn chặn sự tấn công của mầm bệnh vào cây. Không thể có một loài vi nấm Trichoderma nào hay một sản phẩm sinh học chứa vi nấm Trichoderma mà có thể giúp kiểm soát hoàn toàn các loại bệnh do nhiều loại nấm hại khác nhau. Bên cạnh đó, với cùng một tác nhân gây hại, các chế phẩm vi nấm khác nhau sẽ cho những hiệu quả kiểm soát khác nhau. Sự khác biệt này do có sự khác nhau về nguồn gốc sản phẩm, chủng loài vi nấm Trichoderma có trong sản phẩm. Do đó, để việc ứng dụng vi nấm đối kháng này có hiệu quả trong sản xuất cà phê thì cần phải biết chính xác nguyên nhân gây bệnh hại để từ đó chọn lựa chế phẩm vi nấm phù hợp./.

Bài liên quan

Tìm hiểu về tiêu chuẩn cà phê hữu cơ

Tìm hiểu về tiêu chuẩn cà phê hữu cơ

Câu chuyện cà phê hữu cơ bắt đầu từ những năm 1980 - 1990 của thế kỷ trước, khi trên thế giới xuất hiện loại cà phê độc đáo khác biệt là Blue Mountain ở Jamaica, hay Kopi Luwak của Indonesia mang lại giá trị lợi nhuận kinh tế cao, đây chính là lý do đưa đến xu hướng chuyển đổi cà phê canh tác truyền thống sang hướng canh tác hữu cơ.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Bánh tai Phú Thọ: Món quà ẩm thực dân dã và tinh tế

Bánh tai Phú Thọ: Món quà ẩm thực dân dã và tinh tế

Trong kho tàng ẩm thực phong phú của đất Tổ Hùng Vương, có một món ăn giản dị nhưng lại in sâu trong tâm trí của mỗi người con Phú Thọ và du khách thập phương, đó chính là bánh tai. Món bánh này không chỉ là một đặc sản ẩm thực, mà còn là một phần hồn của văn hóa địa phương, gắn liền với những câu chuyện đời thường, những bữa cơm ấm cúng và tình cảm mộc mạc của người dân nơi đây. Với hình dáng độc đáo, hương vị đậm đà và cách chế biến tỉ mỉ, bánh tai Phú Thọ đã trở thành một món quà ý nghĩa, đại diện cho nét tinh tế trong ẩm thực dân dã.
Tiên phong "mở đường" theo mô hình canh tác hữu cơ cho cây trồng tỷ đô

Tiên phong "mở đường" theo mô hình canh tác hữu cơ cho cây trồng tỷ đô

Với ham muốn đưa những đưa sản phẩm sầu riêng sạch, đảm bảo chất lượng đến tay người tiêu dùng trong và ngoài nước, ông Mai Đình Thọ (Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Dịch vụ Nông nghiệp Sạch) đã tiên phong "mở đường", định hướng cho các nông hộ canh tác “cây tỷ đô” chuyển hướng hữu cơ bền vững.
Rau bò khai (rau Dạ Hiến) - Đặc sản của núi rừng phía Bắc

Rau bò khai (rau Dạ Hiến) - Đặc sản của núi rừng phía Bắc

Trong kho tàng ẩm thực phong phú của vùng núi phía Bắc, có một loại rau dại mà cái tên nghe có vẻ lạ lẫm, thậm chí “hơi nặng mùi”, nhưng lại trở thành một trong những đặc sản được săn lùng nhiều nhất: rau bò khai, hay còn được biết đến với tên gọi rau dạ hiến. Tên gọi “bò khai” xuất phát từ mùi đặc trưng của nó khi còn tươi, thoang thoảng giống mùi khai của động vật. Tuy nhiên, khi được chế biến đúng cách, mùi này hoàn toàn biến mất, nhường chỗ cho hương vị thơm ngon, độc đáo, khiến bao người phải tấm tắc khen ngợi.
Mật ong hoa Bạc hà sản phẩm độc đáo vùng cao nguyên đá Đồng Văn

Mật ong hoa Bạc hà sản phẩm độc đáo vùng cao nguyên đá Đồng Văn

Thiên nhiên ban tặng cho vùng cao nguyên đá Hà Giang một thứ sản vật quý giá, độc đáo mà ít nơi nào có được: mật ong hoa bạc hà. Đây không chỉ là một món quà ẩm thực tinh túy mà còn là niềm tự hào của người dân địa phương. Với màu vàng chanh đặc trưng, hương thơm dịu nhẹ và vị ngọt thanh mát, mật ong bạc hà đã trở thành một trong những đặc sản nổi tiếng nhất của vùng đất này, thu hút du khách trong và ngoài nước.
Xây dựng bản đồ Cadimi giúp doanh nghiệp và nông dân chủ động phòng ngừa rủi ro

Xây dựng bản đồ Cadimi giúp doanh nghiệp và nông dân chủ động phòng ngừa rủi ro

Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt cho biết, bản đồ Cadimi sẽ được xây dựng từ việc lấy mẫu đất, nước tưới và phân bón trên diện rộng ở các vùng trồng, phân tích tại phòng thí nghiệm đạt chuẩn, sau đó tổng hợp dữ liệu để xác định “điểm nóng” ô nhiễm. Toàn bộ kết quả sẽ được số hóa, tích hợp vào hệ thống quản lý vùng trồng, giúp cơ quan quản lý, doanh nghiệp và nông dân dễ dàng truy cập và chủ động phòng ngừa rủi ro.
Pẻng Phạ - "bánh trời" của người Tày Bắc Kạn

Pẻng Phạ - "bánh trời" của người Tày Bắc Kạn

Nền ẩm thực của các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc Việt Nam luôn ẩn chứa những câu chuyện văn hóa đầy thú vị, và Pẻng Phạ của người Tày ở Bắc Kạn là một ví dụ điển hình. Không chỉ là một món ăn truyền thống, Pẻng Phạ còn được gọi bằng một cái tên mỹ miều, đầy thi vị: "bánh trời". Cái tên này không chỉ gợi lên hình ảnh một món bánh giản dị, mộc mạc mà còn hàm chứa một ý nghĩa tâm linh sâu sắc, gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng trời đất của người dân địa phương.
Vượt rào cản công nghệ thúc đẩy khuyến nông xanh phát triển

Vượt rào cản công nghệ thúc đẩy khuyến nông xanh phát triển

Trước yêu cầu đổi mới mô hình sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản, giảm thiểu tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu và tình trạng thiếu hụt lao động,...chiều ngày 08/8, tại Nghệ An, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An tổ chức tọa đàm “Ứng dụng AI trong công tác Khuyến nông”.
Lâm Đồng đẩy mạnh chương trình OCOP - Đòn bẩy phát triển sản phẩm địa phương

Lâm Đồng đẩy mạnh chương trình OCOP - Đòn bẩy phát triển sản phẩm địa phương

Trong giai đoạn 2021–2025, Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành điểm sáng trong nỗ lực phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao giá trị sản phẩm địa phương và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh. Với sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng và sự đồng lòng của doanh nghiệp, chương trình OCOP tại Lâm Đồng đang từng bước tạo được dấu ấn rõ nét.
Trồng ổi Ba Cụp Kỳ Đồng: Đặc sản OCOP ở Hà Tĩnh

Trồng ổi Ba Cụp Kỳ Đồng: Đặc sản OCOP ở Hà Tĩnh

Hà Tĩnh, mảnh đất được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu và thổ nhưỡng đa dạng, không chỉ nổi tiếng với những cánh đồng lúa bạt ngàn hay bờ biển dài thơ mộng, mà còn là nơi sản sinh ra nhiều loại cây ăn trái đặc sản, trong đó nổi bật là giống ổi Ba Cụp Kỳ Đồng. Với hương vị đặc trưng, giòn ngọt và thơm, ổi Ba Cụp Kỳ Đồng không chỉ là một loại trái cây thông thường mà còn mang trong mình câu chuyện về sự cần cù, sáng tạo của người dân Hà Tĩnh, đặc biệt là tại vùng đất Kỳ Đồng.
Bánh nếp nhân trứng kiến - Nét ẩm thực độc đáo của người Tày

Bánh nếp nhân trứng kiến - Nét ẩm thực độc đáo của người Tày

Trong kho tàng ẩm thực phong phú và đầy màu sắc của các dân tộc Việt Nam, người Tày ở Tuyên Quang sở hữu một món bánh đặc biệt, khiến bất cứ ai một lần nếm thử cũng phải trầm trồ khen ngợi bởi hương vị độc đáo và sự tinh tế trong cách chế biến: Bánh nếp nhân trứng kiến. Món bánh này không chỉ là một món ăn truyền thống mà còn là biểu tượng cho sự gắn bó hài hòa giữa con người với thiên nhiên, thể hiện sự khéo léo và sáng tạo trong ẩm thực của đồng bào Tày vùng núi phía Bắc.
Cá thính Lập Thạch - Nét tinh tế ẩm thực Vĩnh Phúc

Cá thính Lập Thạch - Nét tinh tế ẩm thực Vĩnh Phúc

Khi nhắc đến ẩm thực Vĩnh Phúc, bên cạnh những đặc sản dân dã mang đậm hương vị đồng quê, không thể không kể đến một món ăn vừa giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa cả một nghệ thuật chế biến tinh tế và bề dày văn hóa: Cá Thính Lập Thạch. Món ăn này không chỉ là niềm tự hào của người dân Lập Thạch, Vĩnh Phúc, mà còn là một minh chứng sống động cho sự khéo léo, kiên trì của người Việt trong việc bảo quản và nâng tầm hương vị của sản vật địa phương.
Cà Gai leo Hợp Hòa (Tuyên Quang) - Vị thuốc quý

Cà Gai leo Hợp Hòa (Tuyên Quang) - Vị thuốc quý

Trong kho tàng y học cổ truyền phong phú của Việt Nam, có vô vàn cây thuốc quý mọc hoang dã, ẩn chứa những công dụng tuyệt vời được cha ông ta đúc kết qua bao đời. Một trong số đó phải kể đến Cà Gai Leo, đặc biệt là những cây Cà Gai Leo Hợp Hòa từ vùng đất Tuyên Quang.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2024 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính