Thứ sáu 17/10/2025 00:23Thứ sáu 17/10/2025 00:23 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Kiến thức nhà nông

Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Hiện nay, trong quá trình canh tác, người trồng cà phê phải đối mặt với nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng của sản phẩm. Trong số đó, bệnh hại và dịch hại là những vấn đề đã và đang làm đau đầu cả những người trồng cà phê và các cấp quản lý bệnh dịch hại cây trồng.
Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ
Vai trò của ứng dụng sinh học trong sản xuất cà phê hữu cơ - Ảnh minh họa.

Ứng dụng sinh học trong kiểm soát bệnh dịch

Việc sử dụng thuốc hóa học để kiểm soát bệnh hại và dịch hại hiện vẫn đang là biện pháp tối ưu nhất đối với người trồng cà phê ở Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy biện pháp hóa học cũng đã và đang mang lại nhiều hệ lụy cho con người và môi trường. Từ những năm 80 của thế kỷ trước, các nước như Ấn Độ và Brazil đã sử dụng Trichoderma để kiểm soát bệnh hại trên cà phê. Đến nay, nhiều nước khác trên thế giới như Kenya, Mỹ, nhiều nước châu Âu như Tây Ban Nha, Đức, Đan Mạch, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ… đã sử dụng biện pháp sinh học trong kiểm soát bệnh hại và dịch hại trên cà phê với mong muốn khắc phục những nhược điểm của việc sử dụng thuốc hóa học và kết quả thu được cũng rất khả quan.

Các báo cáo trên thế giới cho thấy nhiều tiềm năng có thể ứng dụng biện pháp sinh học bằng cách sử dụng các sinh vật đối kháng. Qua đó, cho thấy ở Việt Nam, khi cây cà phê cũng bị tấn công bởi các bệnh hại và dịch hại có nguyên nhân tương tự, chúng ta cũng có thể sử dụng biện pháp này. Tuy nhiên, người trồng cà phê cũng như cấp quản lý bệnh dịch hại cần xác định rõ nguyên nhân của bệnh hại và dịch hại để có được biện pháp kiểm soát phù hợp.

Ngoài biện pháp sử dụng sinh vật đối kháng như trên, hiện nay, các nước trên thế giới đã và đang nghiên cứu phát triển nhiều biện pháp sinh học mới như trồng giống cà phê kháng bệnh dịch ở Ethiopia hay như sử dụng các chất chiết xuất sinh học như hardin từ Erwinia amylovora để trừ bệnh tàn lụi do Erwinia, rệp vừng, các bệnh do vi khuẩn, các loại tuyến trùng hại rễ… ở Đức, Tây Ban Nha và Mexico. Biện pháp trồng xen canh ca cao với cà phê ở Philippine giúp giảm sự ảnh hưởng của côn trùng và các bệnh hại như bệnh gỉ sắt. Tuy nhiên việc trồng xen canh cũng cần phải được tìm hiểu kỹ, ví dụ như xen canh cà phê với chuối sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm tuyến trùng vào cà phê do chuối là vật chủ tốt cho loài tuyến trùng Pratylenchus coffeae. Các biện pháp nhằm giúp tăng cường khả năng phát triển của cây nhờ hệ rễ được cộng sinh với nấm Phlebopus portentosus hay Glomus hoặc xử lý hạt cà phê với Trichoderma trước khi ươm giống cũng đang là những phương pháp được nhiều nước ứng dụng.

Ứng dụng sinh học trong bảo quản sản phẩm sau thu hoạch

Giống như những loại nông sản khác, cà phê sau khi thu hoạch cũng có thể bị hư hỏng bởi nhiều nguyên nhân vật lý, hóa học và sinh học khác nhau. Trong đó, có thể ứng dụng biện pháp sinh học để kiểm soát các tác nhân sinh học gây hư hỏng hạt cà phê (chủ yếu là sự tấn công của các loài nấm hại).

Một số nấm hại hạt cà phê được thế giới chú ý là nấm Fusarium concolor Krug tạo dạng nấm sợi màu hơi đỏ trên hạt. Chúng có thể tạo độc tố nấm mycotoxin làm ảnh hưởng đến chất lượng của nước uống cà phê khi sử dụng. Hay như nấm Aspergillus ochraceus, khi nhiễm trên hạt, sẽ tổng hợp độc tố orchratoxin A gây ảnh hưởng trên thần kinh, hệ miễn dịch… của người sử dụng. Để kiểm soát các mối nguy tiềm tàng từ những loài nấm này cũng như ức chế sự phát triển của chúng trên hạt cà phê, người ta có thể sử dụng các vi sinh vật đối kháng như Bacillus subtilis hay Trichoderma. Ngoài Bacillus subtilis và Trichoderma, một loài nấm khác là Cladosporium cladosporioides (Fres) de Vries. cũng được sử dụng như một nhân tố kiểm soát sinh học trên hạt cà phê nhằm mục tiêu kiểm soát các nấm hại như Fusarium sp.,Penicillium sp., Apergillus spp.

Ứng dụng trong tận dụng phế liệu café

Không phải chỉ riêng ở nước ta, các nước trên thế giới cũng gặp phải một tình trạng tương tự là sự thừa thải của các nguồn phế phụ liệu trong sản xuất cà phê như vỏ cà phê và bã cà phê nhân sau tách chiết. Trong đó, lượng vỏ cà phê khổng lồ là vấn đề quan trọng hơn do chúng không tập trung, do đó, dẫn đến khó kiểm soát và xử lý. Qua khảo sát thực tế cho thấy hầu hết các hộ trồng cà phê xử lý lượng vỏ cà phê sau khi sát theo cách như để khô tự nhiên rồi đốt bỏ, bón trực tiếp vào gốc cây (gồm cả cà phê) chưa qua ủ hoai... Với các nhà máy chế biến thì có thể tận dụng nguồn phế liệu này để làm nhiên liệu nhưng với các nông hộ thì khó thực hiện được do nhiều nguyên nhân như không có bếp chuyên dụng hoặc các nhược điểm tương tự như khi sử dụng củi để đốt lò. Chỉ một lượng rất nhỏ vỏ cà phê được sử dụng làm nhiên liệu ở quy mô nông hộ.

Trong khi đó, nguồn nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất phân hữu cơ cũng như nhu cầu phân hữu cơ cho nông nghiệp nói chung và người sản xuất cà phê nói riêng hiện tại rất lớn để bổ sung nguồn dinh dưỡng hữu cơ tự nhiên vào đất. Do đó, việc đốt bỏ vỏ cà phê rõ ràng đã gây lãng phí nguồn nguyên liệu này. Việc bón trực tiếp vỏ cà phê chưa qua ủ hoai cho cây trồng xem ra cũng còn nhiều vấn đề phải lưu ý như thời gian phân hủy chậm, quá trình phân hủy sẽ gây hư hại hệ rễ và gốc cây. Thêm vào đó, nếu nguồn vỏ có mang tàn dư của các mầm bệnh và/hoặc dịch bệnh cho cây cà phê thì hậu quả tất yếu là sự phát tán nguồn bệnh này trở lại cây trồng.

Đi tiên phong trong việc nghiên cứu tân dụng vỏ cà phê trên thế giới thì có thể kể đến các nước như Ấn Độ, Iraq hay Colombia. Ở những nước này, người ta sử dụng lại nguồn phế liệu từ sản xuất cà phê để tạo những sản phẩm phục vụ việc canh tác như phân bón hữu cơ, đất sạch… Đặc biệt hơn, họ cũng đã tận dụng vỏ cà phê để làm nguyên liệu kết hợp với phân gà để sản xuất được các sản phẩm mang bào tử của những chủng nấm đối kháng nhằm phục vụ lại việc canh tác cà phê. Ở Ấn Độ, từ vỏ cà phê, người ta đã thu được các sản phẩm Trichoderma harzianum và T. virens đạt hiệu quả 1011 – 1012 CFU/g cơ chất. Hay cao cấp hơn nữa, người ta dùng vỏ cà phê để làm cơ chất sản xuất các loại nấm ăn như nấm bào ngư (Pleurotus florida) ở Iraq, Colombia và nấm đông cô (Lentinula edodes) ở Colombia.

Lưu ý khi ứng dụng nấm đối kháng Trichoderma trong sản xuất cafe

Hiện nay, việc sử dụng các chế phẩm sinh học để kiểm soát bệnh hại và dịch hại đã phổ biến ở một số nơi trong nước trên một số loại cây trồng. Dù là loại cây gì, kiểm soát tác nhân nào và bằng chế phẩm sinh học nào thì cũng có những nguyên tắc sinh học chung. Trong đó, cần lưu ý rằng hầu hết các sinh vật trong các chế phẩm sinh học cũng cần có chất dinh dưỡng để tồn tại và phát huy hiệu quả. Do đó, việc sử dụng chế phẩm sinh học mà không cung cấp nguồn dinh dưỡng thích hợp cho chúng đôi khi chỉ thêm lãng phí.

Nhiều nghiên cứu đã cho thấy việc sử dụng các chất dinh dưỡng đa lượng (NPK) vô cơ quá mức cũng làm giảm hiện diện của các loài vi sinh vật hữu hiệu, đặc biệt là Trichoderma. Sử dụng phân vô cơ càng tăng thì lượng Trichoderma trong đất càng giảm. Thêm vào đó, người ta cũng đã chứng minh được rằng nếu thiếu phân hữu cơ thì số lượng Trichoderma trong đất cũng giảm. Điều này rõ ràng rằng chúng ta cần cung cấp cho cây NPK vừa phải và cần thiết phải bổ sung vào đất các nguồn dinh dưỡng hữu cơ, vừa có lợi cho cây trồng vừa có lợi cho các vi sinh vật hữu hiệu.

Trong quá trình sử dụng các sản phẩm vi nấm đối kháng trong sản xuất cà phê, quan trọng hơn hết vẫn là sự am hiểu của người trồng về các đặc điểm thực tế trong vườn của mình cũng như các kiến thức cơ bản về các chế phẩm vi nấm này. Đặc điểm thực tế của vườn chủ yếu là tình trạng sinh lý của cây, xác định các triệu chứng bệnh hại chính xác và mức độ bệnh hại. Việc sử dụng chế phẩm nấm đối kháng Trichoderma chỉ có thể giúp ngăn ngừa sự lây lan mầm bệnh cũng như giúp cây trồng tăng cường sức đề kháng thông qua việc giúp cây tăng cường khả hấp thu dinh dưỡng, khỏe mạnh cũng như ngăn chặn sự tấn công của mầm bệnh vào cây. Không thể có một loài vi nấm Trichoderma nào hay một sản phẩm sinh học chứa vi nấm Trichoderma mà có thể giúp kiểm soát hoàn toàn các loại bệnh do nhiều loại nấm hại khác nhau. Bên cạnh đó, với cùng một tác nhân gây hại, các chế phẩm vi nấm khác nhau sẽ cho những hiệu quả kiểm soát khác nhau. Sự khác biệt này do có sự khác nhau về nguồn gốc sản phẩm, chủng loài vi nấm Trichoderma có trong sản phẩm. Do đó, để việc ứng dụng vi nấm đối kháng này có hiệu quả trong sản xuất cà phê thì cần phải biết chính xác nguyên nhân gây bệnh hại để từ đó chọn lựa chế phẩm vi nấm phù hợp./.

Bài liên quan

Tìm hiểu về tiêu chuẩn cà phê hữu cơ

Tìm hiểu về tiêu chuẩn cà phê hữu cơ

Câu chuyện cà phê hữu cơ bắt đầu từ những năm 1980 - 1990 của thế kỷ trước, khi trên thế giới xuất hiện loại cà phê độc đáo khác biệt là Blue Mountain ở Jamaica, hay Kopi Luwak của Indonesia mang lại giá trị lợi nhuận kinh tế cao, đây chính là lý do đưa đến xu hướng chuyển đổi cà phê canh tác truyền thống sang hướng canh tác hữu cơ.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Đắk Lắk: Giới thiệu quy trình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp

Đắk Lắk: Giới thiệu quy trình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp

Tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao Phú Yên (xã Phú Hòa 2, huyện Phú Hòa), Ban Quản lý Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Phú Yên tổ chức Hội nghị giới thiệu kết quả tiếp nhận, hoàn thiện các quy trình công nghệ và mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao năm 2025.
“Xanh hóa” việc trồng lúa - Hướng đi bền vững cho gạo Việt

“Xanh hóa” việc trồng lúa - Hướng đi bền vững cho gạo Việt

Gạo Việt cần phải “xanh hóa” để có thể vượt qua những rào cản lớn về tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao của thị trường xuất khẩu cũng như nội địa.
Đặc sản độc đáo: Thằn lằn núi Bà Đen

Đặc sản độc đáo: Thằn lằn núi Bà Đen

Khi nhắc đến Tây Ninh, người ta không chỉ nghĩ đến núi Bà Đen hùng vĩ, huyền bí hay Tòa Thánh Cao Đài lộng lẫy mà còn nhớ đến một món ăn độc đáo, nức tiếng gần xa: Thằn lằn núi Bà Đen. Loài thằn lằn này không giống bất kỳ loài nào khác, chúng sống len lỏi trong những vách đá cheo leo, ăn lá, hoa và trái của cây thuốc quý mọc trên núi. Chính nhờ nguồn thức ăn đặc biệt này mà thịt thằn lằn núi có hương vị riêng, được ví như một loại "linh dược" bổ dưỡng.
Chè Đoỏng Pán ngát hương thơm vị miền non nước

Chè Đoỏng Pán ngát hương thơm vị miền non nước

“Được cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chè tập huấn, chuyển giao các quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc chè theo tiêu chuẩn hữu cơ thông qua triển khai Dự án “Xây dựng mô hình thâm canh cải tạo vùng chè Đoỏng Pán gắn với chế biến một số sản phẩm chè xanh chất lượng cao tạo sản phẩm OCOP tại xã Độc Lập, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng". Các thành viên Hợp tác xã Chè Đoỏng Pán (HTX) luôn tuân thủ nghiêm ngặt quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật trong tất cả các khâu sản xuất chè, chú trọng xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị sản phẩm “Chè Đoỏng Pán", đem lại hiệu quả kinh tế". Giám đốc HTX Triệu Khánh Hoàng cho biết.
Mục Đồng: hành trình từ "cơn khát" sữa sạch

Mục Đồng: hành trình từ "cơn khát" sữa sạch

Mặc dù địa chỉ ở Hà Nam, nhưng câu chuyện về Công ty Cổ phần Sữa Mục Đồng là một ví dụ điển hình về sự chuyển mình mạnh mẽ của ngành nông nghiệp Việt Nam, và là nguồn cảm hứng cho nhiều địa phương khác, và bây giờ là cả Ninh Bình. Đây không chỉ là một doanh nghiệp sản xuất sữa, mà còn là một câu chuyện về khát vọng làm giàu trên chính mảnh đất quê hương, về tư duy đột phá và con đường phát triển bền vững.
Hành trình “quả vàng hữu cơ” giữa đại ngàn Tây Nguyên

Hành trình “quả vàng hữu cơ” giữa đại ngàn Tây Nguyên

Giữa đại ngàn Tây Nguyên nắng gió, nơi những dải đất đỏ bazan cuồn cuộn trải dài, một câu chuyện nông nghiệp đầy cảm hứng đang được viết nên. Đó không phải câu chuyện của phép màu, mà là kết tinh từ ý chí, tầm nhìn và khát vọng bền vững. Nhân vật chính là Công ty TNHH Nông nghiệp sạch Sài Gòn - Tây Nguyên, doanh nghiệp đã chọn cho mình hướng đi khác biệt: Xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp sạch, hữu cơ, với thông điệp rõ ràng qua slogan “Vì sức khỏe gia đình bạn”.
Hồn quê xứ Quảng xưa giữa lòng Đà Nẵng mới

Hồn quê xứ Quảng xưa giữa lòng Đà Nẵng mới

Bên dòng sông Yên hiền hòa, làng cổ Phong Nam (phường Hòa Xuân, TP. Đà Nẵng) đã trải qua hơn nửa thiên niên kỷ vẫn giữ được dáng vẻ yên bình và nét đẹp nguyên sơ của một làng quê xứ Quảng.
Trà Hoa Vàng: Loài cây quý hiếm và giá trị khoa học

Trà Hoa Vàng: Loài cây quý hiếm và giá trị khoa học

Nằm giữa vùng đệm Vườn Quốc gia Cúc Phương, Ninh Bình một trong những khu bảo tồn thiên nhiên lớn nhất Việt Nam, là một báu vật thực vật quý hiếm: cây Trà hoa vàng. Loài cây này không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp độc đáo của những bông hoa vàng rực rỡ mà còn được mệnh danh là “nữ hoàng” của các loài trà nhờ những công dụng tuyệt vời cho sức khỏe.
Hội nghị xúc tiến tiêu thụ bưởi Phúc Trạch sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ

Hội nghị xúc tiến tiêu thụ bưởi Phúc Trạch sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ

Ngày 12/9/2025 tại tỉnh Hà Tĩnh, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Tĩnh tổ chức Hội nghị Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề: “Xúc tiến thương mại tiêu thụ bưởi Phúc Trạch sản xuất đạt tiêu chuẩn hữu cơ”.
Thương hiệu ổi lê giúp nông dân vươn lên làm giàu

Thương hiệu ổi lê giúp nông dân vươn lên làm giàu

Những năm qua, nhiều hộ dân tại xã Hà Long vươn lên làm giàu từ việc trồng cây ổi lê. Không những vậy ổi lê nơi đây còn đạt chứng nhận sản phẩm OCOP 3 sao và được cấp mã số vùng trồng.
Sâm “tiến vua”: Thần dược của thiên nhiên trên đất Bắc

Sâm “tiến vua”: Thần dược của thiên nhiên trên đất Bắc

Sâm tiến vua, hay còn được biết đến với tên gọi là sâm nam, sâm nam núi Dành, hay sâm Bố Chính, không chỉ là một loài thực vật quý hiếm mà còn mang trong mình những câu chuyện lịch sử và giá trị y học đặc biệt. Loài cây này đã từng được dùng để tiến vua, trở thành một trong những sản vật quý của Việt Nam. Sâm tiến vua được tìm thấy và trồng nhiều ở vùng đất Bắc Giang nay là Bắc Ninh.
Chè Atisô - Vị ngọt thanh của Cao Nguyên Đà Lạt

Chè Atisô - Vị ngọt thanh của Cao Nguyên Đà Lạt

Khi nhắc đến Đà Lạt, du khách không chỉ bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của hoa dã quỳ, những con đường uốn lượn giữa bạt ngàn rưng thông hay không khí se lạnh mà còn ấn tượng bởi một loài cây đặc trưng: cây atisô. Và từ loài cây này, một thức uống dân dã nhưng đầy giá trị đã ra đời, trở thành một món quà quý giá của xứ sở ngàn hoa: chè atisô.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính