Thứ sáu 12/12/2025 06:07Thứ sáu 12/12/2025 06:07 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Yếu tố “xanh” lần đầu tiên được đề cập trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, theo đó Việt Nam xác định việc chuyển đổi phương thức tiêu dùng theo hướng bền vững nhằm bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu.
Thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam

Trong những năm gần đây, tiêu dùng thực phẩm hữu cơ đã trở thành xu hướng tại Việt Nam. Qua khảo sát, bài viết chỉ ra rằng việc tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam còn khá hạn chế mà nguyên nhân lớn nhất đó chính là sự nghi ngờ của người tiêu dùng về nguồn gốc sản phẩm cũng như tính hiệu quả của các văn bản pháp luật trong việc khuyến khích các tổ chức và cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm hữu cơ cũng như trừng phạt các hành vi kinh doanh thực phẩm bẩn. Đây là kết quả nghiên cứu thuộc đề tài nghiên cứu mã số KT.19.05 của Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

1. Đặt vấn đề

Xu hướng tiêu dùng xanh hiện nay đang lan tỏa và nhận được sự hưởng ứng khá tích cực từ phía người dân, các nhà sản xuất cũng như các cơ quan quản lý nhà nước tại Việt Nam. Dù chưa có một quy định riêng biệt về tiêu dùng xanh nhưng nhiều nội dung liên quan đến tiêu dùng xanh hay tiêu dùng bền vững đã sớm được đưa vào nội dung chính sách, được lồng ghép quy định trong nhiều văn bản pháp luật. Yếu tố “xanh” lần đầu tiên được đề cập trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, theo đó Việt Nam xác định việc chuyển đổi phương thức tiêu dùng theo hướng bền vững nhằm bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết.

Tiếp theo đó, lần đầu tiên thuật ngữ “tiêu dùng bền vững” được nêu ra tại Quyết định số 1393/ QĐ-Ttg, trong đó nhấn mạnh thúc đẩy việc dán nhãn sinh thái và phổ biến thông tin các sản phẩm thân thiện môi trường đến toàn xã hội. Khuyến khích tiêu dùng bền vững trong khu vực doanh nghiệp và tiêu dùng bền vững trong khu vực dân cư, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững là một nhiệm vụ quan trọng mà Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh nêu ra. Ngoài ra, tiêu dùng xanh cũng được đề cập tới trong một số các văn bản liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hay luật sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả...

Hoạt động đẩy mạnh tiêu dùng xanh tại Việt Nam là khá đa dạng, được triển khai ở cấp độ các cơ quan quản lý Nhà nước tới các doanh nghiệp.

Bài viết có mục đích đánh giá thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ - một trong các sản phẩm xanh được ưa chuộng hiện nay tại Việt Nam. Bài viết gồm 5 phần, ngoài phần đặt vấn đề, phần 2 sẽ trình bày tổng quan nghiên cứu về tiêu dùng xanh. Phần 3 trình bày phương pháp nghiên cứu. Thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ và thảo luận được trình bày ở phần 4. Phần 5 sẽ đưa ra các kết luận và khuyến nghị.

2. Tổng quan nghiên cứu

Thay đổi phương thức tiêu dùng theo hướng xanh là chủ đề được quan tâm rộng rãi, bởi nó liên quan tới nhiều chủ thể (cá nhân, hộ gia đình, nhóm, doanh nghiệp, và nhà nước), nhiều cấp độ (địa phương, quốc gia, vùng lãnh thổ và quốc tế), nhiều khía cạnh (tiêu dùng không chỉ đơn thuần được xem là đối tượng kinh tế, mà còn phải mở rộng ra cả xã hội và môi trường). Hiện nay, cùng với kinh tế xanh, tiêu dùng xanh đã, đang và sẽ trở thành vấn đề trung tâm, một xu thế tất yếu trên thế giới nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững.

Khái niệm và vai trò của tiêu dùng xanh

Khái niệm tiêu dùng xanh nhấn mạnh vào việc kết hợp nhận thức về môi trường vào quá trình tiêu thụ hay tiêu dùng xanh là một hình thức tiêu thụ cho phép mọi người tham gia bảo vệ môi trường (Sun và cộng sự, 2019). Theo Jonge và cộng sự (2018), tiêu dùng xanh thường được dẫn chiếu tới tiêu dùng 5R, bao gồm: Giảm (Reduction), Đánh giá lại (Revaluate), Tái sử dụng (Reuse), Tái chế (Recycle) và Cứu hộ (Rescue).

Vai trò của tiêu dùng xanh là rất rõ ràng. Vai trò đầu tiên của tiêu dùng xanh phải kể tới, đó là: tiêu dùng xanh góp phần làm giảm các hiệu ứng tiêu cực của tiêu dùng đối với môi trường và hệ sinh thái (OECD, 2008). Ngoài ra, tiêu dùng xanh còn khuyến khích sự phát triển của thị trường sản phẩm xanh (OECD, 2008). Về mặt phát triển bền vững, tiêu thụ xanh có thể giúp duy trì sự cân bằng giữa đáp ứng nhu cầu và bảo vệ môi trường bằng cách ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình tiêu thụ, bao gồm cả việc lựa chọn, sử dụng và xử lý sản phẩm.

Các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu dùng xanh

Có rất nhiều nghiên cứu về tiêu dùng xanh dưới các góc độ khác nhau, trong đó, những yếu tố ảnh hưởng đến tiêu dùng xanh đã thu hút sự chú ý nhiều nhất của các nhà nghiên cứu.

Yếu tố đầu tiên được nhắc tới chính là mức giá phụ trội của các sản phẩm xanh hay mức độ chấp nhận chi trả cho sản phẩm xanh (Li và cộng sự, 2016). Mức giá phụ trội hàm ý rằng người tiêu dùng cần phải thanh toán một khoản thêm (extra) cho các sản phẩm xanh so với các sản phẩm thông thường (Li và cộng sự, 2016).

Ngoài ra, các đặc tính về dân số như tuổi, giới tính, thu nhập và trình độ (Laroche và cộng sự, 2001; Dainantopoulos và cộng sự, 2003), hiểu biết của cá nhân về môi trường (Chan, 2001), thái độ của cá nhân đối với môi trường và định hướng giá trị cá nhân (Ramayah và cộng sự, 2010) cũng ảnh hưởng tới tiêu dùng xanh. Nghiên cứu của Li và cộng sự (2016) đã chỉ ra rằng những người trên 55 tuổi rất sẵn sàng trả thêm khoản phí phụ trội cho việc tiêu dùng sản phẩm xanh, bởi họ muốn bảo vệ môi trường. Theo Sun và cộng sự (2019), trong số các yếu tố nhân khẩu học, giáo dục ảnh hưởng đến tiêu dùng xanh thông qua nhận thức về môi trường, tuổi và vị trí địa lý của hộ gia đình cũng ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh. Ngoài ra, nghiên cứu cũng nhấn mạnh vai trò của các yếu tố tâm lý, thái độ môi trường và nhận thức về môi trường thúc đẩy tiêu thụ xanh, và truyền thông.

Mối liên hệ giữa đặc điểm cá nhân và mức độ chấp nhận chi trả cho sản phẩm xanh là rất phức tạp (Daimantopoulous và cộng sự, 2003). Một số nghiên cứu chỉ ra sự tương quan thuận chiều giữa mức độ chấp nhận chi trả cho sản phẩm xanh và nhóm nhân tố bao gồm: trình độ, thu nhập, thái độ đối với môi trường như nghiên cứu của Olive và cộng sự (2011), Saphores và cộng sự (2007), Wang và xu (2004). Tuy nhiên, do không thể đo lường trực tiếp mối quan hệ giữa tiêu dùng và hậu quả môi trường từ việc tiêu dùng nên thông thường người tiêu dùng thường đưa ra mức độ chấp nhận chi trả cho sản phẩm xanh ở mức thấp.

Một số nghiên cứu khác như của Rylander và Allen (2001) và Zrnikau (2003) đề cập tới mối liên hệ giữa các nhân tố khách quan (bên ngoài) tới tiêu dùng xanh. Ví dụ, lãi suất kinh doanh hoặc lãi suất của nhà sản xuất có thể có mối quan hệ thuận chiều với tiêu dùng xanh. Hay vị trí địa lý của cửa hàng kinh doanh được đưa vào để đo lường niềm tin của khách hàng đối với sản phẩm và theo hướng những người tiêu dùng này lan tỏa hành động của họ tới thái độ của những chủ thể khác tham gia thị trường (Leary và cộng sự, 2014). Bên cạnh đó, phải kể đến mức độ ô nhiễm môi trường, xu hướng môi trường (Sun và cộng sự, 2019).

Thực trạng tiêu dùng xanh tại Việt Nam

Việt Nam dù chưa có một quy định riêng biệt về tiêu dùng xanh nhưng nhiều nội dung liên quan đến tiêu dùng xanh, tiêu dùng bền vững đã sớm được đưa vào nội dung chính sách, được lồng ghép quy định trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước.

Yếu tố “xanh” lần đầu tiên được đề cập trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, theo đó Việt Nam xác định việc chuyển đổi phương thức tiêu dùng theo hướng bền vững nhằm bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết. Ngày 25 tháng 9 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ kí quyết định số 1393/QĐ-Ttg phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Tại quyết định này, lần đầu tiên thuật ngữ “tiêu dùng bền vững” được nêu ra, trong đó nhấn mạnh thúc đẩy việc dán nhãn sinh thái và phổ biến thông tin các sản phẩm thân thiện môi trường đến toàn xã hội, chi tiêu công phải gương mẫu thực hiện theo tiêu chuẩn kinh tế xanh, khuyến khích tiêu dùng bền vững trong khu vực doanh nghiệp và tiêu dùng bền vững trong khu vực dân cư. Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững là một trong ba nhiệm vụ quan trọng cần phải thực hiện mà Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh nêu ra. Ngoài ra, tiêu dùng xanh cũng được đề cập tới trong một số các văn bản liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả... (Hoang, 2016).

Trong thực tế, hoạt động đẩy mạnh tiêu dùng xanh tại Việt Nam là khá đa dạng, được triển khai ở cấp độ các cơ quan quản lý Nhà nước tới các doanh nghiệp. Có thể kể tới chương trình cấp Nhãn sinh thái của Bộ Tài nguyên và Môi trường, chương trình Nhãn tiết kiệm năng lượng của Bộ Công Thương, chương trình Mạng lưới điểm đến xanh được tổ chức tại Hà Nội... Các chương trình đều hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng về việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường, đồng thời thúc đẩy việc sản xuất những sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường.

Ở góc độ doanh nghiệp, một số doanh nghiệp ý thức được việc đẩy mạnh hoạt động kích cầu tiêu dùng xanh là hết sức quan trọng, nhằm làm cho khách hàng hiểu rõ hơn và thực hiện hành vi tiêu dùng xanh. Ở góc độ người tiêu dùng, dễ nhận thấy người tiêu dùng Việt Nam ngày càng quan tâm đến môi trường, đến vấn đề “xanh” và “sạch”, coi trọng hành vi mua thân thiện với môi trường. Hầu hết các hộ gia đình đều đã nghe đến sản phẩm xanh và tiêu dùng xanh. Chiến dịch tiêu dùng xanh được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh ghi nhận sự tham gia của hơn 70.000 lượt tình nguyện viên, hơn 4 triệu lượt người dân cam kết hưởng ứng tiêu dùng xanh, mức tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp xanh tăng lên từ 40%-60% trong tháng diễn ra chiến dịch tại hệ thống các siêu thị Co.opmart. Người tiêu dùng Việt Nam sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho các thương hiệu có cam kết “xanh” và “sạch” (Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, 2017). 80% người tiêu dùng lo ngại tác hại lâu dài của các nguyên liệu nhân tạo và 79% sẵn sàng trả thêm tiền để mua các sản phẩm không chứa các nguyên liệu mà họ không mong muốn.

Về giải pháp thúc đẩy tiêu dùng xanh tại Việt Nam, các nghiên cứu nhấn mạnh tới việc thay đổi nhận thức của người dân về các vấn đề môi trường như nghiên cứu của Ngô và Phạm (2019). Chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tuyên truyền về lợi ích của các sản phẩm xanh, chất lượng và giá cả cạnh tranh trên thị trường của các sản phẩm xanh cũng như lợi ích thiết thực trong bảo vệ môi trường đến cộng đồng, người tiêu dùng, người sản xuất để thu hút lực lượng tiêu thụ sản phẩm xanh và nâng cao nhận thức về tiêu dùng xanh. Bản thân người tiêu dùng cũng cần ý thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của tiêu dùng xanh đối với môi trường, sức khỏe của cá nhân, cộng đồng vì sự phát triển bền vững cho muôn đời sau và tích cực vận động người thân, gia đình thực hiện hành vi tiêu dùng xanh, coi đây là trách nhiệm và vinh dự lớn lao của mỗi con người trong xã hội.

Như vậy có thể thấy, có rất nhiều nghiên cứu về sản phẩm xanh trên thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn tồn tại khoảng trống nghiên cứu về tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam. Điều này thôi thúc nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu về chủ đề này.

3. Phương pháp nghiên cứu và thống kê mô tả dữ liệu

Để đánh giá thực trạng hành vi tiêu dùng sản phẩm hữu cơ, nhóm tác giả tiến hành thiết kế bảng hỏi. Câu hỏi được thiết kế theo thang đo Likert từ 1 tới 5 trong đó 1 là mức độ đồng ý thấp nhất và 5 là mức độ đồng ý cao nhất. Sau khi chốt nội dung, bảng hỏi được thiết kế trên google docs và nhóm tác giả dẫn link trên mạng xã hội (Facebook) để mọi người trả lời. Thời gian thu thập dữ liệu từ 1/5/2021 tới 31/5/2021. Nghiên cứu thu về 573 câu trả lời, trong đó có 566 câu trả lời hợp lệ.

Bảng 1 dưới đây mô tả chi tiết thống kê về người trả lời. Theo đó, 74,91% số người được hỏi đến từ Hà Nội, 22,26% đến từ các tỉnh/ thành phố khác trong cả nước và chỉ 2,83% người được hỏi đang sinh sống tại TP. Hồ Chí Minh. 76,86% người trả lời là nữ trong khi đó chỉ 23,14% người trả lời là nam. Về trình độ học vấn, 48,23% đối tượng khảo sát tốt nghiệp đại học, 29,33% có trình độ sau đại học và chỉ 22,44% người trả lời có trình độ tốt nghiệp THPT hoặc thấp hơn.

Thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam

Phần lớn người trả lời là nhân viên (57,24%), học sinh, sinh viên (28,09%). 10,25% là tự kinh doanh và tỷ lệ hơn 4% còn lại đã nghỉ hưu hoặc trong tình trạng thất nghiệp. Độ tuổi phổ biến của đối tượng khảo sát là từ 35-49 (chiếm 41,34%), từ 21-34 (35,16%), tiếp đến là độ tuổi 15-20 (16,25%). Độ tuổi từ 50 trở lên chiếm 7,25%.

Liên quan tới tình trạng hôn nhân và gia đình, 54,06% người được hỏi đã kết hôn và có con, tiếp đến là 25,27% độc thân hoặc đã li hôn, sống cùng bố mẹ và/hoặc con cái và/hoặc anh chị, bạn bè. 18,02% người trả lời sống một mình (độc thân hoặc đã li hôn) trong khi chỉ 2,65 đã kết hôn nhưng chưa có con. Mức thu nhập phổ biến của các gia đình từ 20 - 40 triệu/tháng (28,62%), 10 - 20 triệu/tháng (26,50%). 20,85% gia đình có thu nhập dưới 10 triệu/tháng. Tuy nhiên, gần 24% gia đình có thu nhập trên 60 triệu/tháng.

4. Thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ ở Việt Nam

Hình 1 dưới đây cho biết tần suất sử dụng thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng tại Việt Nam. Mặc dù hơn 80% người tiêu dùng được khảo sát cho rằng thực phẩm hữu cơ rất đa dạng về chủng loại (như thịt, hải sản, rau củ...) cũng như việc tiếp cận thực phẩm hữu cơ là dễ dàng tại Việt Nam hiện nay, việc tiêu dùng thực phẩm hữu cơ là chưa thực sự phổ biến tại Việt Nam. Cụ thể, 24% người trả lời tiêu dùng thực phẩm hữu cơ hàng ngày, 16% và 21% người tiêu dùng sử dụng thực phẩm hữu cơ 4 - 5 lần/ tuần và 2 - 3 lần/tuần. 38,49% người tiêu dùng còn lại sử dụng thực phẩm hữu cơ 1 lần/tuần, 2 - 3 lần/tháng hoặc không thường xuyên. Đặc biệt, con số người tiêu dùng không thường xuyên sử dụng thực phẩm hữu cơ lên tới 29%.

Thực trạng tiêu dùng thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam

Tìm hiểu về nguyên nhân của thực trạng này, nhóm tác giả nhận được câu trả lời của người tiêu dùng liên quan tới giá của thực phẩm hữu cơ cũng như sự nghi ngờ của người tiêu dùng về nguồn gốc của sản phẩm. Khoảng 90% người khảo sát đồng ý rằng thực phẩm hữu cơ là đắt so với các sản phẩm khác cùng loại. Tuy vậy, phần lớn người tiêu dùng đồng ý chi trả thêm một khoản cho thực phẩm hữu cơ. Ngoài ra, mặc dù người tiêu dùng đều đồng ý rằng việc tiêu dùng các sản phẩm hữu cơ hiện nay được xã hội khuyến khích và ủng hộ, tuy nhiên người tiêu dùng chưa đánh giá cao tính hiệu quả của các văn bản pháp lý. Cụ thể: người tiêu dùng cho mức điểm trung bình 3,4 trên thang điểm 5 cho tính đầy đủ của các văn bản pháp luật và quy định cụ thể trừng phạt các trường hợp bán thực phẩm không an toàn, điểm 3,1 trên thang điểm 5 cho các văn bản pháp luật khuyến khích người sản xuất thực phẩm hữu cơ cũng như tính hiệu quả chung của các văn bản pháp luật.

Như vậy có thể thấy, điều mà người tiêu dùng Việt Nam quan tâm nhất đó chính là sản phẩm có thực sự là sản phẩm hữu cơ hay không. Hơn 80% người tiêu dùng được khảo sát cho rằng hiện nay, họ lựa chọn cửa hàng bán thực phẩm hữu cơ do cửa hàng có nguồn gốc sản phẩm rõ ràng (ví dụ: nhãn hàng cho phép bạn truy xuất nguồn gốc của sản phẩm) hoặc lựa chọn cửa hàng bán thực phẩm hữu cơ dựa trên sự nổi tiếng của cửa hàng hoặc dựa trên sự giới thiệu của bạn bè và/hoặc đã từng sử dụng các sản phẩm ở đây. Nói cách khác, người tiêu dùng Việt Nam cần một cơ sở để đảm bảo rằng họ thực sự mua được sản phẩm hữu cơ, thực sự mua đúng sản phẩm mà họ chấp nhận chi trả thêm, đắt hơn sản phẩm thông thường.

5. Kết luận và khuyến nghị

Kết quả nghiên cứu cho thấy hiện nay việc tiêu dùng thực phẩm hữu cơ là chưa phổ biến tại Việt Nam cho dù sự hiểu biết của người tiêu dùng về ý nghĩa của thực phẩm hữu cơ đối với sức khoẻ con người và môi trường sống ngày càng tăng, tính đa dạng của thực phẩm hữu cơ ngày càng được cải thiện cũng như người tiêu dùng sẵn sàng chi trả một mức giá cao hơn cho thực phẩm hữu cơ. Vấn đề lớn nhất mà người tiêu dùng quan tâm là nguồn gốc xuất xứ rõ ràng của sản phẩm cũng như tính hiệu lực của pháp luật trong việc khuyến khích các nhà sản xuất thực phẩm hữu cơ chân chính và trừng phạt, răn đe những đối tượng kinh doanh thực phẩm “bẩn”, thực phẩm không đúng như cam kết. Điều này hàm ý rằng, các nhà sản xuất kinh doanh thực phẩm hữu cơ cần chú trọng hơn tới việc hỗ trợ khách hàng truy xuất nguồn gốc xuất xứ sản phẩm. Về phía cơ quan chức năng, cần có những văn bản pháp lý hiệu quả hơn để khuyến khích các nhà sản xuất kinh doanh thực phẩm sạch, đặc biệt cần có hành động quyết liệt hơn để trừng phạt những cá nhân, tổ chức kinh doanh thực phẩm bẩn, qua đó, tạo niềm tin cho người tiêu dùng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Chan R.Y. K. (2001). Determinants of Chinese consumers' green purchase behavior. Psychol. Mark., 389-413.

2. Daimantopoulos A., Schlegelmich B.B., Sinkovics R.R., Bohlen G.M. (2003). Can socio-demographics still play a role in profiling green consumers? A review of the evidence and an empirical investigation. J.Bus.Res, 456-480.

3. Hoang, T. T. (2016). Xu hướng tiêu dùng xanh trên thế giới và hàm ý đối với Việt Nam. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 66-72. doi:https://js.vnu.edu.vn/EAB/article/view/297/283

4. Laroche M., Bergeron J., Barbaro-Forleo G. (2001). Targeting consumers who are wiling to pay more for environmentally friendly products. J. Consumer Mark., 503-520.

5. Li Y., Lu Y., Zhang X., Liu L., Wang M., Jiang X. (2016). Propensity of green consumption behaviors in representative cities in China. Journal of Cleaner Production, 1328-1336.

6. Ngô T. D., Phạm T. N. (2019). Thúc đẩy tiêu dùng xanh của các hộ gia đình Việt Nam hiện nay. Tạp chí tài chính. Retrieved from http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/thuc-day-tieu-dung-xanh-cua-cac-ho-gia-dinh-viet-nam-hien-nay-302162. html

Tác giả

TS. Nguyễn Thị Nhung

TS. Trần Thị Vân Anh

ThS. Đào Thị Thanh Huyền

Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN

Bài liên quan

Nông nghiệp hữu cơ - hướng sản xuất nâng cao giá trị nông sản

Nông nghiệp hữu cơ - hướng sản xuất nâng cao giá trị nông sản

Khi biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, khi tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi về an toàn thực phẩm và sản xuất bền vững. Cao Bằng là tỉnh có nhiều tiềm năng về đất đai, khí hậu và các cây trồng đặc hữu, việc chuyển dịch sang mô hình hữu cơ là một giải pháp đột phá, hướng đến tái cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị nông sản và cải thiện sinh kế bền vững cho người dân.
Phú Mỹ tung ra thị trường sản phẩm mới Hữu cơ Phú Mỹ Organic 70

Phú Mỹ tung ra thị trường sản phẩm mới Hữu cơ Phú Mỹ Organic 70

Ngày 17/10/2025, Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo – Phú Mỹ) cho biết ngay đầu quý IV đã đưa ra thị trường sản phẩm mới Hữu cơ Phú Mỹ Organic 70. Sản phẩm này tiếp nối thành công của Hữu cơ Phú Mỹ Organic 60, vốn đã ra mắt trong quý II/2025 và nhanh chóng chiếm được niềm tin của thị trường cũng như bà con nông dân nhờ chất lượng vượt trội.
Măng Lục trúc Bamovina Đức Thành đạt chứng nhận sản phẩm hữu cơ Việt Nam

Măng Lục trúc Bamovina Đức Thành đạt chứng nhận sản phẩm hữu cơ Việt Nam

Hơn 2.000 gốc tre lấy măng lục trúc trên diện tích 2ha được trồng tại thôn Bàng, xã Hoàn Lão, tỉnh Quảng Trị, đây là mô hình liên kết giữa Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại – Xây dựng Đức Thành với hộ bà Lê Thị Mai Hoa, sau 3 năm đã cho ra sản phẩm măng lục trúc sạch, thân thiện với môi trường, an toàn đối với người sử dụng. Trên cơ sở đó, sản phẩm đã đạt chứng nhận tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, được người tiêu dùng đánh giá cao về độ giòn, ngọt, an toàn, dinh dưỡng và đặc biệt không có Xyanua…
Nông nghiệp hữu cơ - hướng sản xuất nâng cao giá trị nông sản

Nông nghiệp hữu cơ - hướng sản xuất nâng cao giá trị nông sản

Khi biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, khi tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi về an toàn thực phẩm và sản xuất bền vững. Cao Bằng là tỉnh có nhiều tiềm năng về đất đai, khí hậu và các cây trồng đặc hữu, việc chuyển dịch sang mô hình hữu cơ là một giải pháp đột phá, hướng đến tái cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị nông sản và cải thiện sinh kế bền vững cho người dân.
Hải Phòng: Nông sản hữu cơ ngày càng được quan tâm

Hải Phòng: Nông sản hữu cơ ngày càng được quan tâm

Thị trường nông sản hữu cơ tại Hải Phòng đang chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ, phản ánh sự thay đổi đáng kể trong thói quen và nhận thức của người tiêu dùng. Nhu cầu về các sản phẩm an toàn, chất lượng, và thân thiện với môi trường không ngừng gia tăng, tạo ra một động lực lớn cho cả nhà sản xuất và các kênh phân phối.
Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt: Hữu cơ chìa khóa phát triển nông nghiệp bền vững

Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt: Hữu cơ chìa khóa phát triển nông nghiệp bền vững

PGS.TS Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho rằng đề án trồng trọt giảm phát thải đã đi đúng hướng phát triển được khuyến khích, đó là phát triển xanh, hữu cơ, bền vững và có định hướng thị trường rõ ràng.
Phú Mỹ tung ra thị trường sản phẩm mới Hữu cơ Phú Mỹ Organic 70

Phú Mỹ tung ra thị trường sản phẩm mới Hữu cơ Phú Mỹ Organic 70

Ngày 17/10/2025, Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo – Phú Mỹ) cho biết ngay đầu quý IV đã đưa ra thị trường sản phẩm mới Hữu cơ Phú Mỹ Organic 70. Sản phẩm này tiếp nối thành công của Hữu cơ Phú Mỹ Organic 60, vốn đã ra mắt trong quý II/2025 và nhanh chóng chiếm được niềm tin của thị trường cũng như bà con nông dân nhờ chất lượng vượt trội.
Xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc: "Chìa khoá" để tăng giá trị, thương hiệu cho nông sản Việt

Xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc: "Chìa khoá" để tăng giá trị, thương hiệu cho nông sản Việt

Hiện nay, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp trở thành một yêu cầu cấp thiết. Đây không chỉ là công cụ để bảo đảm quyền lợi cho người tiêu dùng, mà còn là yếu tố then chốt giúp gia tăng giá trị, tạo dựng thương hiệu và mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản Việt.
Chọn hữu cơ hôm nay, đầu tư cho tương lai xanh

Chọn hữu cơ hôm nay, đầu tư cho tương lai xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, an toàn thực phẩm trở thành mối quan tâm toàn cầu và người tiêu dùng đang từng bước chuyển mình theo xu hướng bền vững, nông nghiệp hữu cơ nổi lên như một giải pháp kép: Vừa phục hồi đất đai, bảo vệ môi trường, vừa đảm bảo sức khỏe và tương lai cho các thế hệ mai sau. Truyền thông - đặc biệt là báo chí hữu cơ - giữ vai trò chiến lược trong việc kiến tạo nhận thức xã hội, thúc đẩy thay đổi hành vi tiêu dùng vì một nền kinh tế xanh.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Kinh tế tư nhân - động lực mới của nông nghiệp xanh và hội nhập

Kinh tế tư nhân - động lực mới của nông nghiệp xanh và hội nhập

Trong quá trình đổi mới và hội nhập, kinh tế tư nhân (KTTN) được coi là một trong những trụ cột quan trọng của phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, phát triển kinh tế tư nhân trong nông nghiệp cũng đang khẳng định vị trí, uy tín ngày càng rõ. Từ hộ nông dân sản xuất giỏi đến các doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, khu vực này đang góp phần thúc đẩy đầu tư, đổi mới sáng tạo, mở rộng thị trường và nâng tầm giá trị nông sản Việt. Tuy nhiên, để KTTN thật sự trở thành động lực dẫn dắt, cần những cải cách mạnh mẽ về thể chế, hạ tầng và liên kết chuỗi giá trị.
Khám phá loại gene cổ đại giúp thực vật sinh trưởng, thích nghi và tồn tại

Khám phá loại gene cổ đại giúp thực vật sinh trưởng, thích nghi và tồn tại

Một nhóm nhà khoa học tại Đại học Monash (Australia) vừa xác định được gene duy nhất từ một loài thực vật trên cạn giúp làm sáng tỏ cách thức thực vật lần đầu tiên phát triển khả năng sinh trưởng liên tục - một đặc điểm then chốt cho phép chúng xâm chiếm đất khô và định hình sự sống trên Trái Đất.
Đẩy mạnh cơ cấu nông nghiệp theo hướng phát triển xanh, hữu cơ, tuần hoàn

Đẩy mạnh cơ cấu nông nghiệp theo hướng phát triển xanh, hữu cơ, tuần hoàn

Tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ đối thoại với nông dân năm 2025, nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ có cơ chế, chính sách tín dụng và ưu đãi thuế để hỗ trợ vốn cho nông dân, hợp tác xã đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải thấp. Đây được coi là hướng đi quan trọng nhằm nâng cao giá trị nông sản, bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp bền vững.
Tạo đột phá cho kinh tế tập thể, hợp tác xã với mô hình xanh, số, tuần hoàn

Tạo đột phá cho kinh tế tập thể, hợp tác xã với mô hình xanh, số, tuần hoàn

Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã theo mô hình xanh, số, tuần hoàn, đồng thời tăng cường liên kết với doanh nghiệp và các khu vực kinh tế khác được Chính phủ xác định là yêu cầu thực tiễn và giải pháp chiến lược trong giai đoạn mới. Đây là nội dung kết luận tại Thông báo số 678/TB-VPCP ngày 9/12/2025 về Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2025.
Hội thảo Ứng dụng KHCN trong sản xuất chế biến cây ăn quả ôn đới theo hướng sinh thái kết hợp với du lịch nông nghiệp

Hội thảo Ứng dụng KHCN trong sản xuất chế biến cây ăn quả ôn đới theo hướng sinh thái kết hợp với du lịch nông nghiệp

Tại Khu du lịch sinh thái Kolia, xã Thành Công (Cao Bằng) ngày 8/12/2025, Trung tâm Đào tạo, nghiên cứu giống cây trồng và vật nuôi, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên tổ chức Hội thảo Ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất chế biến cây ăn quả ôn đới theo hướng sinh thái kết hợp với du lịch nông nghiệp.
Nhận diện tiềm năng phát triển nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam

Nhận diện tiềm năng phát triển nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam

Theo Liên đoàn Các phong trào canh tác nông nghiệp hữu cơ quốc tế (IFOAM), nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất toàn diện hướng tới sự bền vững của hệ sinh thái, an toàn thực phẩm, dinh dưỡng tốt, tôn trọng động vật và công bằng xã hội.
Hội thảo quốc tế phát triển ngành cà phê toàn cầu, địa phương và bền vững

Hội thảo quốc tế phát triển ngành cà phê toàn cầu, địa phương và bền vững

Tại phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, hơn 100 đại biểu là lãnh đạo một số sở, ngành, các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp và tổ chức trong nước, quốc tế tham dự Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề “Chuỗi giá trị ngành công nghiệp cà phê toàn cầu – Phát triển toàn cầu, địa phương và bền vững”.
Huế: Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững tại phường Dương Nỗ

Huế: Thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững tại phường Dương Nỗ

Phường Dương Nỗ (Tp. Huế) có diện tích đất nông nghiệp là 1.260,01ha, là phường được thành lập trên cơ sở sáp nhập các xã Phú Dương, Phú Mậu và Phú Thanh (cũ).
Phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam: Cần những giải pháp đồng bộ

Phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam: Cần những giải pháp đồng bộ

Việt Nam có tài nguyên đất, nước và khí hậu phục vụ nông nghiệp là điều kiện thuận lợi sản xuất nông sản quy mô hàng hóa, đây là điều kiện tốt để sản xuất nông nghiệp tập trung, nâng cao sức cạnh tranh nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Trồng rau thủy canh - hướng đi mới trong việc ứng dụng sản xuất rau sạch, hữu cơ

Trồng rau thủy canh - hướng đi mới trong việc ứng dụng sản xuất rau sạch, hữu cơ

Phương pháp trồng rau thủy canh đang ngày càng phổ biến và được ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp Việt Nam. Với những ưu thế như tiết kiệm sức lao động, giảm sâu bệnh hại, nâng cao năng suất và chất lượng rau thành phẩm, kỹ thuật “trồng không cần đất” này đã chứng minh hiệu quả ở cả quy mô nhỏ tại hộ gia đình lẫn quy mô lớn trong các trang trại công nghệ cao. Cùng tìm hiểu hệ thống quy trình, kỹ thuật và những thông tin cốt lõi về trồng rau thủy canh, trên cơ sở tổng hợp các hướng dẫn kỹ thuật và kinh nghiệm thực tiễn hiện nay.
Đề xuất cơ chế mở đường hướng tới chuỗi giá trị nông nghiệp xanh

Đề xuất cơ chế mở đường hướng tới chuỗi giá trị nông nghiệp xanh

Nghị định 98/2018/NĐ-CP sau hơn 6 năm triển khai được nhìn nhận là một bước đi trúng trọng tâm, tạo khung pháp lý và cơ chế hỗ trợ tài chính thúc đẩy liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Tuy nhiên, từ thực tế đã bộc lộ những hạn chế, khiến doanh nghiệp và hợp tác xã (HTX) gặp khó khăn, cần phải được sửa đổi để đáp ứng tốt hơn sự đòi hỏi của thực tiễn. Dự thảo nghị định thay thế Nghị định 98/2018/NĐ-CP bổ sung cơ chế khuyến khích phát triển chuỗi giá trị xanh và vùng nguyên liệu đạt chuẩn phục vụ xuất khẩu.
Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Tiềm năng cần được "đánh thức"

Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Tiềm năng cần được "đánh thức"

Với lịch sử canh tác hữu cơ đã hình thành từ lâu, nông nghiệp Việt Nam là ngành có lợi thế so sánh bởi tính đa dạng và quy mô sản lượng, chất lượng hàng đầu thế giới. Cùng với đó, các nông sản có nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác hợp lý, đặc biệt là thủy sản, rau quả và dược liệu, song do cơ chế chính sách và đầu tư quảng bá xúc tiến thương mại, khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất hữu cơ còn hạn chế, diện tích nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam còn chưa khai thác hết tiềm năng.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính