![]() |
| Tại Việt Nam, phát triển nông nghiệp hữu cơ không đơn thuần là chuyển đổi phương thức canh tác mà là cả một tiến trình đổi mới tư duy, chính sách và cơ cấu ngành nông nghiệp. |
Nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản
Trên cơ sở đó, từng địa phương cần chủ động xác định loại cây trồng, vật nuôi có lợi thế so sánh, xác định quy mô nông nghiệp hữu cơ phù hợp, trong quá trình sản xuất cần chú ý yếu tố quyết định là thị trường. Tài nguyên nước ở Việt Nam khá phong phú bao gồm nước mặt và nước ngầm. Hiện nay, ngành nông nghiệp là ngành tiêu thụ nước nhiều nhất, nên chỉ cần khai thác 10 - 15% trữ lượng là đảm bảo nhu cầu cho sản xuất và đời sống. Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nhiều thuận lợi phát triển cây trồng nhiệt đới, bảo đảm cho cây trồng có năng suất cao, chất lượng tốt. Nếu ứng dụng công nghệ cao, chúng ta sẽ sản xuất các nông sản phục vụ cho mùa Đông ở thị trường các nước châu Âu, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Ngoài ra, Việt Nam có bờ biển dài, là điều kiện thuận lợi để vận chuyển vật tư nông nghiệp và nông sản theo hướng hai chiều của đất nước rất thuận lợi, giảm giá thành. Đồng thời, đây cũng là lợi thế về vận tải đường biển để trao đổi hàng hóa giữa các nước trong khu vực ASEAN, châu Á và thế giới. Như vậy, thời tiết và khí hậu thuận lợi, chất lượng đất đai tốt là nhân tố tích cực tác động đến năng suất, chất lượng và chi phí sản xuất của nông sản, làm cho sản xuất đạt năng suất cao, nhưng chi phí sản xuất thấp.
Việt Nam có nguồn lao động nông thôn khá dồi dào với 25 triệu người trong độ tuổi lao động. Đây là nguồn nhân lực quan trọng, thuận lợi trong tổ chức sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh, đặc biệt vùng nông thôn thiếu lao động trầm trọng, do đó, trong những năm tới cần phải quyết liệt đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh để giải quyết vấn đề thiếu lao động vùng nông thôn và giảm giá thành sản xuất.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2021 xuất khẩu nông sản thu khoảng 47 tỷ USD (vượt chỉ tiêu hơn 5 tỷ USD), năm 2025 khả năng cán mốc gần 70 tỷ USD, vượt xa mục tiêu 65 tỷ USD đề ra. Trong đó, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản là 03 thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất. Như vậy, trong tương lai nếu chúng ta ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh để khai thác ngưỡng đội trần năng suất cây trồng, vật nuôi và đầu tư công nghệ chế biến nông sản có quy mô lớn thì chắc chắn giá trị nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng nhanh trong những năm tới, trong đó có nông nghiệp hữu cơ.
Đối mặt với những thách thức
Tuy đã có một số thành tựu nhất định, nông sản hữu cơ Việt Nam vẫn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng sản lượng nông nghiệp và giá trị xuất khẩu nông sản. Dù nhiều địa phương đã chú trọng phát triển nông nghiệp hữu cơ gắn với bảo vệ môi trường, nhưng việc khai thác hiệu quả các điều kiện tự nhiên, xã hội để phát triển loại hình này vẫn còn nhiều vấn đề.
Nguyên nhân là do quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ đòi hỏi khắt khe, chi phí sản xuất cao, trong khi năng suất lại thấp và thị trường tiêu thụ chưa ổn định... Mặt khác, việc kiểm soát về dư lượng hóa chất cũng như sự minh bạch về nguồn gốc, xuất xứ cũng là một vấn đề khiến nhiều sản phẩm hữu cơ mất uy tín trên thị trường. Đó là chưa kể đến những hạn chế trong phát triển hệ thống chuỗi sản phẩm, xây dựng và quảng bá thương hiệu.
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam cũng đối diện với những khó khăn, thách thức như sau:
Một là, chưa có quy hoạch đồng bộ về sản xuất hữu cơ, chưa có các cơ chế, chính sách riêng hỗ trợ cho sản xuất hữu cơ, mà lồng ghép thực hiện trong các chương trình, dự án khác như chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hỗ trợ liên kết sản xuất tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng…
Hai là, chưa có nhiều tổ chức kiểm tra chứng nhận sản xuất hữu cơ, phần lớn việc chứng nhận hữu cơ phải thuê các tổ chức nước ngoài nên chi phí cao, khó thực hiện, nhất là với các doanh nghiệp nhỏ hoặc các hộ dân. Ba là, quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tài liệu tập huấn đào tạo về sản xuất hữu cơ còn hạn chế, chưa phổ biến. Bốn là, người tiêu dùng chưa tin tưởng và khó phân biệt giữa sản phẩm sản xuất hữu cơ và các sản phẩm thông thường khác.
Ngoài ra, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, nên khó khăn trong việc sản xuất quy mô lớn dẫn đến chi phí đầu tư cao; nguồn nhân lực chất lượng cao cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn ít; chưa xây dựng các chương trình trọng điểm và đầu tư nguồn lực tương xứng để tạo đột phá...
Cần đồng bộ các giải pháp
Phát triển nông nghiệp hữu cơ cần đòi hỏi tất yếu từ thực tế, gắn với việc tái cơ cấu ngành Nông nghiệp Việt Nam. Nông nghiệp hữu cơ không chỉ tạo ra những sản phẩm an toàn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng ở thị trường trong và ngoài nước, mà còn khai thác được thế mạnh của mỗi vùng miền, góp phần bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững nền nông nghiệp. Để phát triển nông nghiệp hữu cơ vừa đảm bảo tính bền vững, đồng thời đảm bảo năng suất và chất lượng sản phẩm cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, Giải pháp về chính sách: Chính phủ, các bộ, ngành cần ban hành những cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ như quy hoạch vùng sản xuất, hỗ trợ vốn sản xuất, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, ưu đãi cho thuê đất... Đồng thời có những chính sách hỗ trợ, quan tâm tới các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh liên quan tới phân bón và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hữu cơ, sinh học… Yếu tố thị trường có vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp hữu cơ. Vì vậy, các bộ, ngành liên quan cần quan tâm, tìm hiểu thị trường tiềm năng giúp doanh nghiệp đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu và mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai, giải pháp về khoa học và công nghệ: Đánh giá lại quy trình sản xuất sản phẩm hữu cơ của các doanh nghiệp trên các phương diện quản lý, chất lượng, thương mại sản phẩm… để tìm ra những khó khăn, đề xuất giải pháp phù hợp cho phát triển nông nghiệp hữu cơ. Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam để rút ra bài học trong việc lựa chọn các sản phẩm phù hợp và chiến lược phát triển trong thời gian tới.
Thứ ba, giải pháp về hợp tác quốc tế: Cần có sự trao đổi kinh nghiệm, học tập, đào tạo nguồn nhân lực với các tổ chức quốc tế, các quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, giúp các doanh nghiệp nước ta được giao lưu, học hỏi, tìm ra giải pháp cho nền nông nghiệp Việt Nam nói chung và nền nông nghiệp hữu cơ nói riêng thông qua việc kêu gọi sự đầu tư của các chương trình, dự án nước ngoài về nông nghiệp hữu cơ; tổ chức các hội thảo, diễn đàn, hội nghị, các khóa tập huấn thúc đẩy hợp tác và trao đổi kinh nghiệm.
Thứ tư, Giải pháp khuyến khích sự đầu tư của các doanh nghiệp vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; các mặt hàng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc hữu cơ. Đây sẽ là những doanh nghiệp có vai trò đầu tàu về việc ứng dụng những mô hình sản xuất hữu cơ chuẩn mực, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất đến các trang trại, hợp tác xã và hộ gia đình làm nông nghiệp.
Thứ năm, Giải pháp về tuyên truyền, nâng cao nhận thức: Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của sản phẩm hữu cơ tới người quản lý, người sản xuất, các doanh nghiệp và người tiêu dùng; việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, chế biến, giám sát và chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Việc Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 - 2030, với mục tiêu phát triển có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu càng thể hiện rõ hơn quyết tâm phát triển nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam. Đề án cũng xác định, với những sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực và thế giới sẽ đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới./.