![]() |
TS. Nguyễn Thị Ngọc Dinh hướng dẫn đề tài khóa luận tốt nghiệp về sản xuất nông nghiệp hữu cơ của sinh viên Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. |
Tại Việt Nam, xu hướng sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) đang được doanh nghiệp, người sản xuất và người tiêu dùng quan tâm trong bối cảnh yêu cầu về an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường ngày càng tăng. Đặc biệt, sản phẩm hữu cơ của ngành trồng trọt như rau, quả… đang tạo động lực mạnh mẽ cho nhiều doanh nghiệp và người sản xuất nhờ có thị trường rộng lớn, giá trị cao. Tuy nhiên, diện tích đất sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam chỉ đạt 174.580 ha chiếm 1,4% tổng diện tích đất canh tác năm 2023, tốc độ tăng trưởng diện tích đạt 143.338 ha so với năm 2022, tốc độ tăng diện tích đất sản xuất nông nghiệp trong vòng 10 năm của Việt Nam là 131.573 ha (FiBL và IFOAM, 2025).
Năm 2023, số cơ sở sản xuất hữu cơ tại Việt Nam là 62.436 và 187 cơ sở chế biến hữu cơ, sản lượng sản phẩm hữu cơ xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ và Châu Âu là 14.408 triệu tấn (FiBL và IFOAM, 2025). Vì thế, có thể thấy rằng các chính sách của chính phủ Việt Nam cũng như các cơ sở sản xuất nông nghiệp rất quan tâm đến việc phát triển nông nghiệp hữu cơ không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu đặc biệt vào các thị trường lớn như Mỹ và Châu Âu.
Để phục vụ cho việc phát triển sản xuất NNHC tại Việt Nam, trong những năm gần đây, chính phủ đã ban hành tiêu chuẩn sản xuất nông nghiệp hữu cơ TCVN 11041: 2017, 2023, nghị định 109/2018/NĐ-CP (ngày 29/8/2018) về NNHC, trong đó quy định những chính sách khuyến khích phát triển NNHC: (1) ưu tiên kinh phí nghiên cứu khoa học, khuyến nông để thực hiện đề tài nghiên cứu, dự án khuyến nông đặc biệt về giống kháng sâu bệnh, phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, thuốc thú y thảo mộc; (2) cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm hữu cơ, hoặc vật tư đầu vào phục vụ sản xuất hữu cơ được ưu tiên hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư; (3) hỗ trợ 100% kinh phí về xác định vùng đất đủ tiêu chuẩn và chi phí cấp lần đầu (hoặc cấp lại) Giấy chứng nhận sản phẩm đủ tiêu chuẩn hữu cơ cùng nhiều cơ chế chính sách khác về hỗ trợ đào tạo, tập huấn sản xuất, chi phí giống kháng sâu bệnh, sử dụng phân bón hữu cơ…
![]() |
Sinh viên Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu đề tài khóa luận tốt nghiệp về sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại xã Vân Sơn, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. |
Ngày 26/03/2020 Chính phủ ban hành quyết định số 885/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Đề án phát triển NNHC giai đoạn 2020 - 2030 của Chính phủ là định hướng chỉ đạo, tạo hành lang pháp lý rất thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp hữu cơ. Theo Đề án phát triển NNHC 885 đến năm 2025, Việt Nam sẽ có 1,5-2% tổng diện tích đất nông nghiệp sản xuất hữu cơ trong đó trồng trọt hữu cơ chiếm khoảng 1-2% tổng diện tích đất trồng trọt với các loại cây trồng chủ lực như lúa, rau, đậu…, trong đó vùng rau hữu cơ có diện tích gieo trồng khoảng 10.000-12.000ha; đến năm 2030, diện tích đất sản xuất hữu cơ khoảng 2,5% - 3% tổng diện tích đất nông nghiệp, trong đó trồng trọt hữu cơ chiếm khoảng 2% tổng diện tích đất trồng trọt, trong đó vùng rau hữu cơ có diện tích gieo trồng khoảng 20.000-25.000ha. Từ đề án 885 này, các tỉnh đều cụ thể hoá và có chiến lược để phát triển NNHC tại địa phương trong đó có phát triển các vùng trồng rau hữu cơ chính vụ, rau hữu cơ trái vụ để tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Tính đến thời điểm hiện tại, tổng diện tích sản xuất hữu cơ của Việt Nam đã đạt 1,4% tổng diện tích đất canh tác. Để đạt được mục tiêu đến năm 2030 theo đề án 885, Việt Nam vẫn cần tiếp tục duy trì các cơ sở sản xuất hữu cơ hiện tại và tiếp tục phát triển mở rộng diện tích sản xuất hữu cơ trong phạm vi cả nước.
Theo khái niệm được quy định trong Nghị định Nông nghiệp hữu cơ của Chính phủ số 109/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2018: Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống sản xuất bảo vệ tài nguyên đất, hệ sinh thái và sức khỏe con người, dựa vào các chu trình sinh thái, đa dạng sinh học thích ứng với Điều kiện tự nhiên, không sử dụng các yếu tố gây tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái; là sự kết hợp kỹ thuật truyền thống và tiến bộ khoa học để làm lợi cho môi trường chung, tạo mối quan hệ công bằng và cuộc sống cân bằng cho mọi đối tượng trong hệ sinh thái. Vì thế cần có những giải pháp đồng bộ để phát triển NNHC ở Việt Nam, trong đó phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho nông nghiệp hữu cơ là rất cần thiết. Nguồn nhân lực cho NNHC không những yêu cầu kiến thức, kỹ năng trong canh tác hữu cơ mà còn phải biết quản lý chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm hữu cơ vì sản phẩm hữu cơ là sản phẩm cao cấp, đặc thù sẽ có những đối tượng khách hàng riêng.
Đào tạo, tập huấn phát triển nguồn nhân lực là một trong các nhiệm vụ của Đề án phát triển NNHC giai đoạn 2020-2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020, với mục tiêu là trang bị, cập nhật kiến thức, thông tin và các kỹ năng cơ bản về sản xuất nông nghiệp hữu cơ, phục vụ công tác quản lý, tập huấn về NNHC. Mặc dù, Việt Nam có lực lượng lao động đông đảo (tính hết quý IV năm 2024 là 53,2 triệu người) nhưng hiện nay chỉ một phần nhỏ làm việc trong lĩnh vực NNHC. Chất lượng lao động làm việc trong lĩnh vực NNHC chưa đáp ứng được nhu cầu do thiếu kiến thức và kỹ thuật. Đa phần nông dân chưa được đào tạo bài bản về canh tác hữu cơ, vẫn quen với phương thức sản xuất truyền thống; Ít chuyên gia và nhà nghiên cứu: Số lượng chuyên gia có chuyên môn sâu về nông nghiệp hữu cơ còn ít, gây khó khăn trong việc hướng dẫn và đào tạo nông dân; Thiếu nhân lực quản lý và kinh doanh: Việc xây dựng thương hiệu, tiếp cận thị trường và phát triển chuỗi cung ứng sản phẩm hữu cơ chưa được chú trọng đúng mức do thiếu nhân lực có chuyên môn. Hiện nay chưa có hệ thống đào tạo chuyên sâu về NNHC tại các trường đại học, cao đẳng nông nghiệp; Các nghiên cứu về NNHC chưa được ứng dụng rộng rãi, gây khó khăn trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; Thiếu liên kết giữa đào tạo và thực tiễn vì đào tạo chủ yếu mang tính lý thuyết, chưa có nhiều mô hình thực hành hiệu quả cho nông dân và doanh nghiệp. Tỷ lệ lao động trẻ tham gia vào sản xuất hữu cơ còn ít, thiếu các chính sách thu hút lực lượng lao động trẻ tham gia vào sản xuất hữu cơ.
![]() |
Tuy nhiên, một số mô hình phát triển nhân lực cho sản xuất hữu cơ như: Học viện Nông nghiệp Việt Nam đưa môn học NNHC, rèn nghề sản xuất NNHC vào chương trình giảng dạy cho sinh viên khoa Nông học từ năm 2014; Nhiều trường đại học khác về Nông nghiệp cũng đưa môn học về NNHC vào trong chương trình giảng dạy cho sinh viên ngành Nông nghiệp; Nhiều doanh nghiệp như Vinamilk, TH True Milk đang đầu tư mạnh vào đào tạo nội bộ cho người lao động về quy trình sản xuất hữu cơ; Các hợp tác xã, doanh nghiệp cũng tổ chức các khóa tập huấn về NNHC; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) ban hành tại Quyết định số 1510/QĐ-BNN-TCCB ngày 26/4/2022 về việc Ban hành bộ Chương trình bồi dưỡng về NNHC cho cán bộ quản lý các cấp, người sản xuất và người làm công tác tập huấn (ToT), trên cơ sở đó các tỉnh đã có các chương trình tập huấn về NNHC và bám sát nội dung này.
Để nâng cao nguồn nhân lực chất lượng cao cho sản xuất NNHC cần áp dụng các giải pháp tổng thể nhằm đào tạo, thu hút và nâng cao năng lực cho lực lượng lao động trong ngành như:
Thứ nhất là: Mở rộng hệ thống đào tạo về NNHC: Đưa NNHC vào chương trình giáo dục, tích hợp kiến thức về nông nghiệp hữu cơ vào chương trình giảng dạy của các trường đại học, cao đẳng và trung cấp nông nghiệp; Xây dựng các Bộ môn, chuyên ngành sâu về NNHC tại các trường đào tạo về nông nghiệp; Hợp tác với các tổ chức quốc tế để cập nhật chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế; Đào tạo thực tiễn cho nông dân và doanh nghiệp như mở các lớp tập huấn, hướng dẫn thực hành về sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm hữu cơ; Xây dựng các mô hình thực nghiệm tại địa phương để nông dân có thể học hỏi trực tiếp; Khuyến khích các doanh nghiệp NNHC đào tạo nội bộ cho nhân viên và liên kết đào tạo với các trường đại học, viện nghiên cứu.
Thứ hai là: Phát triển đội ngũ chuyên gia, cán bộ kỹ thuật và tư vấn về NNHC như: Đào tạo chuyên gia đầu ngành về NNHC bằng cách cử cán bộ, giảng viên đi học tập và nghiên cứu tại các nước có nền NNHC phát triển như Nhật Bản, Đức, Mỹ, Úc,…; Khuyến khích nghiên cứu khoa học về NNHC, tạo điều kiện để các chuyên gia thực hiện các dự án nghiên cứu và ứng dụng thực tế; Xây dựng đội ngũ tư vấn viên kỹ thuật tại các địa phương để hướng dẫn nông dân áp dụng các quy trình sản xuất hữu cơ; Liên kết với các hợp tác xã, doanh nghiệp để triển khai các chương trình hỗ trợ kỹ thuật tại chỗ.
Thứ ba là: Ứng dụng công nghệ và chuyển giao khoa học kỹ thuật về sản xuất hữu cơ như: Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hữu cơ, sinh học; Phổ biến các kỹ thuật canh tác tiên tiến giúp nâng cao năng suất và giảm chi phí sản xuất; Xây dựng các khóa học trực tuyến (E-learning) về NNHC, giúp lao động tiếp cận dễ dàng hơn; Tận dụng mạng xã hội và các nền tảng số để chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm.
Thứ tư là: Chính sách thu hút và hỗ trợ nguồn nhân lực như cung cấp học bổng và hỗ trợ tài chính cho sinh viên theo học các ngành liên quan đến NNHC; Hỗ trợ vay vốn ưu đãi cho nông dân và doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực này; Xây dựng chính sách đãi ngộ tốt hơn để thu hút lao động trẻ tham gia sản xuất NNHC; Khuyến khích thành lập các hợp tác xã NNHC để tạo việc làm ổn định cho lao động địa phương; Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản phẩm hữu cơ, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Thứ năm là: Tăng cường hợp tác quốc tế và học hỏi kinh nghiệm như: Mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế như IFOAM (Liên đoàn quốc tế các phong trào nông nghiệp hữu cơ), FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc); Học tập các mô hình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực từ các nước có nền NNHC phát triển; Khuyến khích trao đổi chuyên gia, nghiên cứu sinh giữa Việt Nam và các nước tiên tiến trong lĩnh vực NNHC.