Thứ năm 13/11/2025 17:47Thứ năm 13/11/2025 17:47 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Đồng Nai quy hoạch vùng sản xuất và định hướng phát triển Nông nghiệp Hữu cơ

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Tỉnh Đồng Nai đã ban hành Quyết định số 2327/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ (NNHC) trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2030, đồng thời có quy hoạch vùng sản xuất và định hướng phát triển NNHC.
Đồng Nai tập trung phát triển NNHC
Đồng Nai tập trung phát triển NNHC

Phát triển NNHC được Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII xác định “…khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn;....; Phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo”.

Chính vì thế, tại Đại hội đại biểu lần thứ XI Đảng bộ tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định một trong các khâu đột phá, đó là: “Tập trung phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm; công nghiệp chế biến sâu nông sản và các dịch vụ nông nghiệp để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”.

Tỉnh Đồng Nai đã ban hành Nghị quyết số 05/2023/NQ-HĐND ngày 14/7/2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai quy định về chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2030; Ø Phê duyệt Đề án phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2021-2030 tại Quyết định số 2327/QĐ-UBND ngày 28/9/2023; Ø Tỉnh đã triển khai thực hiện chương trình nông nghiệp hữu cơ bằng các kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm.

Thực trạng phát triển NNHC tỉnh Đồng Nai

Tính đến cuối năm 2022, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 76 cơ sở sản xuất NNHC và hướng hữu cơ; trong đó, sản xuất hữu cơ có 3 cơ sở với tổng diện tích 8,2 ha (rau 2 cơ sở, 3,8 ha; hồ tiêu 1 cơ sở 3,5 ha; bưởi 1 cơ sở 0,9 ha) và sản xuất hướng theo hữu cơ 72 cơ sở (cây ăn quả 39 cơ sở 1.077,49 ha; rau 11 cơ sở 81,2 ha; lúa 3 cơ sở 33,7 ha; hồ tiêu 2 cơ sở 27,28 ha; nuôi heo 5 cơ sở 540 con; nuôi gà 1 cơ sở 3.000 con; nuôi tôm nước lợ 1 cơ sở 2,5 ha; các loại sản phẩm khác 11 cơ sở 419,36 ha).

Theo đánh giá chung, quy mô phát triển NNHC tại tỉnh Đồng Nai còn rất nhỏ, các mô hình NNHC và hướng theo Hữu cơ chưa thực hiện đúng quy định, tập trung ở các khu đông dân cư, khu công nghiệp nên nguy cơ ô nhiễm cao và rất nhiều vấn đề khác.

Định hướng phát triển NNHC trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Dựa trên việc đánh giá nguồn lực, các điều kiện tự nhiên thuận lợi cũng như khó khăn; hiện trạng và dự báo về quy mô dân số và mật độ dân số; hiện trạng và quy hoạch các khu, cụm công nghiệp, hiện trạng và quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn; kết quả khảo sát môi trường đất, nước; kết quả xây dựng bản đồ các đơn vị đất đai và đánh giá thích nghi cây trồng; tiêu chí lựa chọn vùng sản xuất NNHC tập trung và các điểm sản xuất NNHC không tập trung… tỉnh Đồng Nai đã đưa ra định hướng phát triển NNHC cụ thể như sau”

Mục tiêu tổng quát: Phát triển NNHC trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị và chất lượng cao, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường để thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao thu nhập cho người sản xuất và bảo đảm sức khỏe cho cả cộng đồng.

Mục tiêu cụ thể:

  • Xác định đối tượng ưu tiên phát triển NNHC trong giai đoạn 2021 – 2030 như những mô hình điểm để nhân ra diện rộng trong các giai đoạn sau năm 2030; theo đó, các đối tượng phát triển NNHC giai đoạn 2021 – 2030 là: cây lúa, cây rau thực phẩm, cây công nghiệp lâu năm (hồ tiêu, điều); cây ăn quả (bưởi, sầu riêng, xoài, chuối, chôm chôm); chăn nuôi (bò, heo, gia cầm); phát huy lợi thế nuôi trồng thủy sản hướng hữu cơ theo hình thức quảng canh dưới tán rừng (tôm sú, cá chẽm, cua biển, hàu và một số đối tượng nước lợ khác).
  • Đến năm 2025, tổng diện tích gieo trồng hữu cơ và hướng hữu cơ trên địa bàn tỉnh là 1.322 ha, chiếm 0,29% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh; trong đó diện tích gieo trồng hướng hữu cơ 1.250 ha, chiếm 0,27% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh; diện tích gieo trồng hữu cơ 72 ha, chiếm 0,02% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh. Chăn nuôi bước đầu chỉ có chăn nuôi hướng hữu cơ; trong đó, đàn bò 290 con; đàn heo 1.700 con, đàn gia cầm 100.000 con. Thủy sản nuôi hướng hữu cơ theo hình thức quảng canh dưới tán rừng (tôm sú, cá chẽm, cua biển, hàu và một số đối tượng nước lợ khác) với diện tích là 200 ha.
  • Đến năm 2030, tổng diện tích gieo trồng hữu cơ và hướng hữu cơ trên địa bàn tỉnh là 4.400 ha, chiếm 2,13% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh; trong đó diện tích gieo trồng hướng hữu cơ 3.242 ha, chiếm 1,57% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh; diện tích gieo trồng hữu cơ 1.158 ha, chiếm 0,56% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh. Đàn bò 1.030 con trong đó, hướng hữu cơ 680 con, hữu cơ 350 con; đàn heo 10.200 con; trong đó hướng hữu cơ 7.850 con, hữu cơ 2.350 con; đàn gia cầm 507.500 con; trong đó, hướng hữu cơ 375.000 con, hữu cơ 132.500 con. Thủy sản nuôi hướng hữu cơ theo hình thức quảng canh dưới tán rừng với diện tích nuôi là 400 ha.

Giải pháp thực hiện

  • Nhóm giải pháp về tuyên truyền, vận động và chỉ đạo điều hành đối với phát triển NNHC với mục tiêu để cả người sản xuất và người tiêu dùng thấy rõ vai trò, ý nghĩa của NNHC; đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với sản xuất với NNHC.
  • Nhóm giải pháp về đào tạo, tập huấn và phát triển nguồn nhân lực: Tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng lao động trong ngành.
  • Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển NNHC để có cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ sản xuất NNHC.
  • Nhóm giải pháp về thành lập các hợp tác xã để liên kết với doanh nghiệp, hình thành và nâng cấp chuỗi giá trị sản phẩm NNHC.
  • Giải pháp về chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
  • Nhóm giải pháp về ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong NNHC.
  • Nhóm giải pháp về xây dựng thương hiệu, XTTM và mở rộng thị trường.
  • Các dự án ưu tiên đầu tư trong sản xuất NNHC.

Bài liên quan

Đồng Nai đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hữu cơ

Đồng Nai đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hữu cơ

Đồng Nai đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ có 4.400 ha đất trồng trọt và chăn nuôi hữu cơ, tập trung vào các loại cây trồng chủ lực như lúa, rau, hồ tiêu, bưởi, sầu riêng, xoài, chuối và điều.
Bứt phá phát triển nông nghiệp hữu cơ

Bứt phá phát triển nông nghiệp hữu cơ

Đồng Nai đạt nhiều thành tựu vượt bậc trong phát triển nông nghiệp hữu cơ, hướng tới một nền nông nghiệp xanh.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Canh tác hữu cơ để phát triển nông nghiệp bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Canh tác hữu cơ để phát triển nông nghiệp bền vững Đồng bằng sông Cửu Long

Đại học Cần Thơ (ĐHCT) vừa tổ chức Hội thảo quốc tế “Nông nghiệp hữu cơ - Sản xuất bền vững (ISOP 2025)” từ ngày 4 đến 6/11, trong khuôn khổ Nghị định thư “Nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp khoa học, công nghệ và thị trường cho sản xuất lúa gạo hữu cơ ở Đồng bằng sông Cửu Long”, hợp tác giữa Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức.
Chuẩn hóa khảo nghiệm DUS giống khoai tây - Bài 2: Nền tảng phát triển giống cây trồng Việt Nam

Chuẩn hóa khảo nghiệm DUS giống khoai tây - Bài 2: Nền tảng phát triển giống cây trồng Việt Nam

Khảo nghiệm DUS (tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định) là bước quan trọng trong đánh giá, bảo hộ và thương mại hóa giống cây trồng, đảm bảo giống có tính khác biệt, đồng nhất và ổn định qua các thế hệ.
Hoàn thiện mô hình quản lý và nhận diện thương hiệu “Mắc ca Lâm Đồng”

Hoàn thiện mô hình quản lý và nhận diện thương hiệu “Mắc ca Lâm Đồng”

Thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản địa phương, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng đang khẩn trương lấy ý kiến hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý, mô hình nhận diện thương hiệu và quy chuẩn sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Mắc ca Lâm Đồng”. Đây là bước quan trọng nhằm khẳng định vị thế, chất lượng và giá trị đặc trưng của hạt mắc ca – sản phẩm tiềm năng của vùng đất cao nguyên trù phú.
Tìm giải pháp nâng cao giá trị chuỗi sản xuất ngành sắn

Tìm giải pháp nâng cao giá trị chuỗi sản xuất ngành sắn

Với mục tiêu đến năm 2030 kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam đạt 1,8-2,0 tỷ USD, hướng tới 2,5 tỷ USD vào năm 2050. Bên cạnh đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu nông nghiệp xanh, sinh thái và kinh tế tuần hoàn.
Hải Phòng: Đột phá nông nghiệp vụ đông bằng KHCN, hướng tới hiệu quả và bền vững

Hải Phòng: Đột phá nông nghiệp vụ đông bằng KHCN, hướng tới hiệu quả và bền vững

Nhằm tìm kiếm các giải pháp đột phá, hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây vụ Đông. Trung tâm Khuyến nông thành phố Hải Phòng đã tổ chức Tọa đàm “Giải pháp khoa học – công nghệ phát triển cây vụ đông hiệu quả, bền vững”.
Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh

Theo ông Đặng Huy Đông, Trưởng Ban Vận động thành lập Hiệp hội chuyển đổi xanh Việt Nam (VGA), niềm tin của thị trường là yếu tố then chốt của nền kinh tế số và kinh tế xanh, chỉ có thể được xây dựng khi các chủ thể tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình minh bạch và cam kết phát triển bền vững.
Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Hiến kế giúp nông dân bảo vệ sức khỏe đất trồng lúa, hướng đến sản xuất bền vững

Để bảo vệ và cải tạo đất các địa phương cần tái cơ cấu ngành lúa gạo (giảm diện tích lúa độc canh; phát triển mô hình xen canh, đa canh; tăng cường lúa chất lượng cao); áp dụng khoa học công nghệ và nông nghiệp thông minh (nông nghiệp thông minh, chính xác; phát triển giống lúa thích ứng; thúc đẩy một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp).
Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Hoàn thiện lộ trình cấm thuốc trừ sâu: Hướng tới nền nông nghiệp xanh, an toàn và bền vững

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng lộ trình tiến tới ngừng nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất carbosulfan và benfuracarb (thuộc nhóm thuốc trừ sâu) tại Việt Nam.
Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nguyên tắc về sự công bằng: Xây dựng một hệ thống bền vững và nhân văn trong sản xuất hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ không chỉ là một phương thức canh tác mà còn là một hệ thống giá trị, trong đó sự công bằng đóng vai trò then chốt. Nguyên tắc về sự công bằng trong nông nghiệp hữu cơ vượt ra ngoài phạm vi kinh tế, bao gồm cả sự công bằng về xã hội, môi trường và đạo đức. Nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững, không chỉ mang lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng mà còn đảm bảo quyền lợi và phúc lợi cho tất cả các bên liên quan, bao gồm cả môi trường và các thế hệ tương lai.
Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng trong nông nghiệp hữu cơ: Tiên liệu và trách nhiệm với tương lai

Nguyên tắc về sự cẩn trọng (Care), đôi khi còn được gọi là nguyên tắc phòng ngừa (Precautionary Principle), là một trong bốn nguyên tắc cốt lõi của nông nghiệp hữu cơ, bên cạnh các nguyên tắc về sức khỏe, sinh thái và công bằng.
Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài cuối: Truyền thông dẫn dắt và lan tỏa tri thức phát triển nông nghiệp xanh

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài cuối: Truyền thông dẫn dắt và lan tỏa tri thức phát triển nông nghiệp xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp, giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là hướng đi tất yếu để phát triển bền vững. Trong đó, truyền thông đóng vai trò then chốt trong việc lan tỏa tri thức, thay đổi nhận thức và thúc đẩy cộng đồng nông dân cùng doanh nghiệp chung tay xây dựng nền nông nghiệp xanh, thân thiện với môi trường.
Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài 2: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt - Bài 2: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Trong hơn một thập kỷ qua, giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp - đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt đã được cộng đồng quốc tế xác định là một trong những giải pháp trọng yếu để ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhiều cơ chế, cam kết và sáng kiến toàn cầu đã được thiết lập nhằm hỗ trợ các quốc gia phát triển và đang phát triển triển khai các giải pháp kỹ thuật, tài chính và giám sát trong sản xuất nông nghiệp giảm phát thải.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính