![]() |
Tại Ninh Bình, vùng bãi ngang ven biển Kim Sơn vốn nổi tiếng là “vựa mật” đặc hữu mà không phải địa phương nào cũng có được. Tuy nhiên, trong suốt nhiều năm, mật ong Kim Sơn vẫn chủ yếu sản xuất theo quy mô nhỏ lẻ, thiếu mã định danh, thiếu thông tin minh bạch, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Sự thay đổi chỉ thật sự bắt đầu khi tem truy xuất nguồn gốc điện tử được triển khai. Tại HTX nuôi ong 27/7 (xã Kim Đông), toàn bộ quy trình từ chăm sóc đàn ong, thu mật theo ngày, vận chuyển, hạ thủy phần đến đóng gói nay được ghi chép bằng hình ảnh và video, cập nhật trực tiếp lên hệ thống truy xuất nguồn gốc. Khi người tiêu dùng quét mã QR, toàn bộ hành trình của sản phẩm sẽ hiển thị rõ ràng, minh bạch.
Anh Tạ Đức Tài, Phó Giám đốc HTX, chia sẻ: “Ngày trước mật tốt đến mấy cũng khó chứng minh. Từ khi có truy xuất nguồn gốc, sản phẩm được chuẩn hóa, đạt độ ẩm chuẩn, không lên men, nên dễ vào hệ thống siêu thị và chuỗi thực phẩm sạch. Giá trị sản phẩm tăng lên, thị trường cũng rộng mở hơn”.
Trong bối cảnh thị trường ngày càng khắt khe, minh bạch hóa nguồn gốc đã trở thành tiêu chuẩn bắt buộc khi đưa sản phẩm vào hệ thống bán lẻ hiện đại. Hầu hết hệ thống phân phối lớn như WinMart, GO!/BigC, Co.opmart hay MM Mega Market hiện đều yêu cầu sản phẩm nông nghiệp phải có mã QR truy xuất nguồn gốc, cung cấp đầy đủ thông tin: mã số vùng trồng, quy trình chăm sóc, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, ngày thu hoạch, sơ chế - chế biến, kiểm nghiệm chất lượng và chứng nhận an toàn thực phẩm.
![]() |
| Tem truy xuất giúp giá trị sản phẩm tăng lên. |
Với chuỗi bán lẻ, đó là công cụ đảm bảo an toàn thực phẩm. Với người tiêu dùng, đây là căn cứ để đánh giá độ tin cậy và sự chuyên nghiệp của cơ sở sản xuất. Vì vậy, sản phẩm thiếu QR gần như không thể vào kênh phân phối chính thống.
Giám đốc HTX Nông lâm nghiệp, Dịch vụ thương mại tổng hợp Po Mỷ (xã Đồng Văn, Tuyên Quang), bà Lưu Thị Hòa cho biết nhờ tem truy xuất, mã QR Code và đẩy mạnh bán hàng trên sàn thương mại điện tử, doanh số bán online của HTX chiếm 70 - 80% tổng bán lẻ, đạt 2,5 tỷ đồng/năm.
Tuyên Quang hiện có 454 sản phẩm OCOP (428 sản phẩm 3 sao, 24 sản phẩm 4 sao và 2 sản phẩm 5 sao quốc gia). Việc áp dụng QR không chỉ giúp minh bạch sản xuất mà còn là nền tảng xây dựng thương hiệu, tăng giá trị hàng hóa và thu nhập cho người dân. Từ khi áp dụng QR, nhiều sản phẩm OCOP đã vào được chuỗi bán lẻ trong nước và từng bước tiếp cận thị trường thế giới.
Tương tự, tại Hợp tác xã rau quả sạch Chúc Sơn (Chương Mỹ, Hà Nội), Chủ tịch HĐQT Hoàng Văn Thám cho biết hợp tác xã đã hợp tác với nhiều đơn vị để triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc. Đây là điều kiện bắt buộc để có thể đưa sản phẩm vào các siêu thị, trường học – những kênh tiêu thụ ổn định và có yêu cầu cao về chất lượng.
Tuy nhiên, ông Thám thẳng thắn đánh giá: thủ tục truy xuất nguồn gốc hiện nay vẫn "phức tạp và tốn kém". Để được chấp nhận, mỗi sản phẩm phải trải qua nhiều bước kiểm chứng, hoàn thiện hồ sơ, đáp ứng bộ tiêu chuẩn truy xuất theo quy định của từng đơn vị phân phối. Chi phí đầu tư cho hệ thống mã truy xuất, tem nhãn, kiểm nghiệm và đánh giá định kỳ đều rất lớn, trong khi giá bán vào trường học, siêu thị lại bị khống chế ở mức thấp.
![]() |
| Một số hợp tác xã đánh giá: thủ tục truy xuất nguồn gốc hiện nay vẫn "phức tạp và tốn kém". |
Chính sự chênh lệch giữa chi phí cao và mức giá thấp khiến nông sản có truy xuất nguồn gốc phải cạnh tranh vô cùng khó khăn với các mặt hàng bày bán tự do ngoài chợ, vốn không phải chịu chi phí kiểm soát chất lượng.
Bên cạnh đó, khó khăn lớn nhất hiện nay là việc đồng bộ hóa dữ liệu truy xuất giữa các cơ quan quản lý. Việc kết nối mã số, mã vạch giữa hệ thống truy xuất của các bộ, ngành với hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia vẫn còn vướng mắc, gây khó cho hợp tác xã khi cần chứng thực thông tin sản phẩm.
Tại Nghị quyết 53 mới, Hà Nội có nhiều chính sách hỗ trợ cụ thể cho các cá nhân, tổ chức đã được đưa ra nhằm thúc đẩy phát triển lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội. Đơn cử như, về chính sách hỗ trợ cấp mã số vùng trồng, Nghị quyết 53 quy định, các tổ chức, cá nhân thực hiện sản xuất trồng trọt trên địa bàn thành phố sẽ được hỗ trợ chi phí tư vấn cho cấp mã số vùng trồng lần đầu để lập hồ sơ cấp mã số, với mức hỗ trợ 100% chi phí theo hợp đồng tư vấn nhưng tối đa không quá 15 triệu đồng/mã số.
Trong khi đó, chính sách hỗ trợ truy xuất nguồn gốc, chứng nhận sản phẩm nông nghiệp được áp dụng với các tổ chức, cá nhân trực tiếp sản xuất theo chuỗi từ sản xuất ban đầu đến giết mổ, sơ chế, chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy sản trên địa bàn Hà Nội, với nguồn kinh phí từ ngân sách địa phương theo phân cấp.
Các cá nhân, tổ chức đáp ứng điều kiện được hỗ trợ một lần 100% chi phí thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc tại cơ sở để tham gia Hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử đạt chuẩn và thiết kế mới hoặc nâng cấp mẫu bao bì, in tem nhãn điện tử chứa thông tin truy xuất nguồn gốc. Mức hỗ trợ không quá 20 triệu đồng/tổ chức, cá nhân…
Cũng vậy, từ một số mô hình thí điểm, hiện Ninh Bình đang đặt mục tiêu xây dựng hệ sinh thái nông sản số toàn tỉnh, trong đó truy xuất nguồn gốc là “trục xương sống”. Các bước được đặt ra gồm: Mở rộng truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm OCOP chủ lực, tổ chức tập huấn kỹ năng số cho cán bộ và nông dân, xây dựng bản đồ số vùng sản xuất gắn với chỉ dẫn địa lý, kết nối sản phẩm truy xuất với thương mại điện tử và tạo nền tảng giám sát chất lượng và môi trường sản xuất.
![]() |
| Chính sách hỗ trợ truy xuất nguồn gốc, chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hiện được áp dụng tại Hà Nội. |
Đồng thời, để sản phẩm nông sản “bước chân” vào hệ thống siêu thị, Giám đốc Trung tâm đào tạo Phát triển nông nghiệp hữu cơ Biobee Việt Nam Tô Xuân Việt cho rằng, các doanh nghiệp bán lẻ cần phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp sản xuất, xây dựng các cơ chế thúc đẩy tiêu thụ nông sản an toàn theo hướng linh hoạt.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp thu mua nên xây dựng những chế tài để phân biệt sản phẩm sạch với sản phẩm không an toàn bảo vệ quyền lợi của nông dân, góp phần làm minh bạch thị trường nông sản.