Phát triển phân bón hữu cơ và thuốc BVTV sinh học là một trong những bước đi then chốt của nông nghiệp sinh thái bền vững - Ảnh minh họa |
Xu hướng chung về sản xuất thuốc BVTV hiện nay đó là một mặt tập trung vào việc tối ưu hoá cơ chế tác động của các sản phẩm hiện có trong đó ưu tiên giảm lượng dùng; mặt khác phát triển thuốc có cơ chế tác động mới, ít độc và thân thiện hơn với môi trường.
Theo thống kê cuả Cục BVTV, Bộ NN&PTNT, cả nước hiện có 96 cơ sở sản xuất thuốc BVTVvới công suất hơn 300.000 tấn/năm và sản xuất được 30 dạng thuốc. Đáng chú ý, theo báo cáo của Cục BVTV, các doanh nghiệp chưa chủ động sản xuất được các hoạt chất. Việt Nam hiện chỉ có 1 cơ sở có sản xuất hoạt chất thuốc BVTVhóa học, công suất khoảng 50 tấn/năm và chỉ dùng cho tiêu thụ nội địa, không xuất khẩu. Quy mô công suất hầu hết ở mức thấp; cơ sở sản xuất phân bố không đồng đều trong nước làm gia tăng chi phí vận chuyển; tỷ trọng sản xuất các dạng thuốc, dung môi yêu cầu kỹ thuật đơn giản; chưa có cơ sở sản xuất thuốc BVTV sinh học chuyên hoá và quy mô lớn.
Hiện nay, Bộ NN&PTNT định hướng phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV theo hướng ngày càng ứng dụng thuốc BVTV sinh học rộng rãi hơn. Tuy nhiên việc phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học hiện gặp một số khó khăn như chưa có các chính sách cụ thể để khuyến khích nghiên cứu, hỗ trợ vốn và đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV sinh học. Điều kiện sản xuất các thuốc BVTV sinh học có nguồn gốc từ thảo mộc chưa được ưu tiên cắt giảm, nên việc đẩy mạnh phát triển các thuốc sinh học nhóm này còn khó khăn.
Ngoài ra, người dân vẫn quen sử dụng thuốc BVTV hóa học do hiệu quả cao, tức thời, giá thành rẻ. Thuốc BVTV sinh học ít được lựa chọn do chi phí sử dụng cao, thời gian bảo quản ngắn, phổ tác động hẹp, chuyên tính, hiệu quả chậm hơn so với thuốc hóa học, không ổn định do bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại cảnh và điều kiện sử dụng.
Để phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học theo mục tiêu đề ra, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hoàng Trung đề nghị, Cục BVTV phối hợp với các viện trường, sở, chuyên gia tiếp tục rà soát, đề xuất xây dựng các chính sách cụ thể để khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Bên cạnh đó khuyến khích liên kết nghiên cứu, phát triển thuốc sinh học giữa các doanh nghiệp với các viện, trường hoặc các doanh nghiệp khoa học công nghệ được thực hiện các dự án theo hình thức hợp tác công tư.
Ngoài ra đặt hàng, ưu tiên bố trí kinh phí cho các đề tài, dự án nghiên cứu phát triển và sản xuất thuốc BVTV sinh học. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thuốc BVTV sinh học, tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm và năng lực của các nước phát triển và các tổ chức quốc tế như FAO, WHO…
Đồng thời chuyển đổi số, xây dựng, số hóa cơ sở dữ liệu về thuốc BVTV từ trung ương đến địa phương, hỗ trợ cán bộ địa phương, doanh nghiệp, cơ sở buôn bán.
Nông nghiệp và khoa học công nghệ không thể tách rời - Bài 1 |
Ứng dụng khoa học công nghệ tăng giá trị trong sản xuất nông nghiệp - Bài 2 |
Chia sẻ với báo chí, ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục BVTV (Bộ NN&PTNT) cho biết, phát triển phân bón hữu cơ và thuốc BVTV sinh học là một trong những bước đi then chốt của nông nghiệp sinh thái bền vững. Bên cạnh đó việc sử dụng này giúp người dân giảm thiểu chi phí đầu vào và canh tác thân thiện với môi trường, đem lại giá trị cao hơn cho nông sản.
Ông Đạt cho biết đến nay đã có rất nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Đặc biệt, "Đề án phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050" được phê duyệt cuối tháng 12/2023 đã đặt mục tiêu nâng tỉ lệ sản phẩm thuốc thực vật sinh học trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam lên 30%.
Đồng thời, xây dựng được mô hình sử dụng thuốc hiệu quả trên 9 nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia như lúa, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, chè, cây ăn quả, rau, sắn.
"Trong đăng ký, chúng tôi đã có nhiều chi tiết đơn giản hơn so với thuốc hóa học như hồ sơ đăng ký chỉ tiêu, thành phần hồ sơ ngắn hơn.
Các thuốc sinh học khi đăng ký chỉ cần khảo nghiệm diện rộng, không cần khảo nghiệm diện hẹp, do đó thời gian, số lần thực hiện và chi phí thực hiện sẽ thấp hơn. Thuốc BVTV sinh học cũng được khuyến khích trong các buổi đào tạo, tập huấn, các chương trình khuyến nông quốc gia để người dân tiếp cận thuốc bảo vệ thực vật sinh học", ông Đạt nói.
Theo ông Đạt, việc vẫn còn một số kiểm soát chặt đối với thuốc sinh học là do việc phân loại các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học chưa được cụ thể, dẫn tới các hồ sơ đăng ký hiện nay gần như giống nhau. Do đó, có những loại thuốc sinh học gặp khó khăn trong khai báo, đăng ký theo quy định của thông tư 21 về quản lý thuốc bảo vệ thực vật.
Đối với giải pháp sắp tới, ông Đạt cho biết, Cục BVTV sẽ tiếp tục rà soát quy định pháp luật, từ luật cho đến nghị định, thông tư để rà soát, phân loại lại thuốc sinh học.
Trong đó, ưu tiên cấp phép cho các loại thuốc bảo vệ thực vật có tiềm năng, thế mạnh như các thuốc có nguồn gốc sinh học, ưu tiên thuốc sinh học thế hệ mới, đặc biệt là các loại thuốc ít nguy cơ đến con người, vật nuôi và môi trường…