Thứ ba 21/10/2025 16:43Thứ ba 21/10/2025 16:43 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Phát triển chè hữu cơ ở Thái Nguyên

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Trong tình hình người tiêu dùng rất lo ngại về thực phẩm không an toàn hiện nay, việc phát triển nông nghiệp hữu cơ (NNHC) là bước đi cần thiết và kịp thời cho nông nghiệp Việt Nam.
Phát triển chè hữu cơ ở Thái Nguyên
Vùng Chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ tại THT Sản xuất chè Hữu cơ Sông Cầu (huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên).

Nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước 2 thách thức vô cùng to lớn đó là an toàn vệ sinh thực phẩm và biến đổi khí hậu (BĐKH). Nếu BĐKH bắt buộc chúng ta phải triển khai nhanh một nền nông nghiệp thích ứng với môi trường mà cốt lõi là thay đổi cơ cấu cây trồng và phương pháp canh tác thích hợp với điều kiện mới do các yếu tố khí hậu, thời tiết thay đổi theo hướng cực đoan, thì thực phẩm không an toàn sẽ đem đến nhiều hệ lụy trầm trọng hơn vì đây là nguyên nhân phá hủy môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của nhiều thế hệ con cháu mai sau. Trong tình hình người tiêu dùng rất lo ngại về thực phẩm không an toàn hiện nay, việc phát triển Nông nghiệp hữu cơ (NNHC) là bước đi cần thiết và kịp thời cho nông nghiệp Việt Nam.

Tình hình sản xuất chè hữu cơ ở Thái Nguyên

Thái Nguyên là địa phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, trong đó chè được xác định là cây trồng chủ lực có giá trị kinh tế cao. Năm 2024, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng được vùng sản xuất chè nguyên liệu với quy mô lớn gần 22.500 ha, sản lượng chè búp tươi đạt trên 267,5 nghìn tấn/năm, giá trị sản phẩm chè đạt 12,3 nghìn tỷ đồng. Tỉnh Thái Nguyên đã xác lập được quyền sở hữu trí tuệ đối với 13 sản phẩm chè bao gồm 1 chỉ dẫn địa lý, 10 nhãn hiệu tập thể và 2 nhãn hiệu chứng nhận. Nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam và được bảo hộ tại 6 quốc gia và vùng lãnh thổ: Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan đã tạo ra rất nhiều cơ hội để sản phẩm chè Thái Nguyên phát triển cả về giá trị, chất lượng, uy tín thương hiệu và có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế.

Trong đề án “Phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030” đã xác định Chè là sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh với các chỉ tiêu: diện tích chè đến năm 2025 là 23.500 ha (trong đó có 235 ha được cấp chứng nhận theo tiêu chuẩn hữu cơ, chiếm 1,0% diện tích) và đến năm 2030 là 24.500 ha (trong đó có 500 ha đạt tiêu chuẩn hữu cơ, chiếm 2,0% diện tích).

Thái Nguyên là tỉnh đầu tiên trong cả nước đã thực hiện sản xuất chè hữu cơ tại xã Tức Tranh, huyện Phú Lương từ những năm 1990 do các tổ chức NGO tài trợ nhưng ở quy mô nhỏ nên không phát triển. Từ năm 2020 đến nay, thực hiện phong trào sản xuất Nông nghiệp hữu cơ do Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam phát động, tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư sản xuất và tích cực vận động nông dân chuyển đổi diện tích chè đã đạt tiêu chuẩn VietGAP sang sản xuất theo tiêu chuẩn trồng trọt hữu cơ (TCVN 11041 – 2/2017). Với sự vào cuộc quyết liệt của các sở, ngành, các cấp chính quyền từ tỉnh, huyện đến cấp xã và sự đồng tình của người làm chè trên địa bàn tỉnh, đến năm 2024, diện tích chè đã được cấp chứng nhận VietGAP có 5140ha (chiếm 22,5%) và diện tích đã được cấp chứng nhận hữu cơ là 110ha (chiếm gần 0,5% so với tổng diện tích chè). Có thể nói đây là một trong những thành công nổi bật của ngành chè Thái Nguyên trong việc chuyển đổi nhận thức và phương thức canh tác của người làm chè theo áp dụng quy trình sản xuất an toàn, hữu cơ gắn với ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong các khâu sản xuất chè nguyên liệu, chế biến, thực hiện chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc và quảng bá, tiêu thụ sản phẩm.

Với 14 đơn vị thực hiện trên diện tích 110 ha chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ và có sự tham gia của 349 hộ nông dân ở các THT, HTX và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã là những mô hình sản xuất chè có hiệu quả. Mặc dù trong giai đoạn chuyển đổi từ sản xuất thông thường sang sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, người sản xuất còn nhiều bỡ ngỡ, năng suất, sản lượng chè năm đầu chuyển đổi có bị giảm sút, tuy nhiên bù lại giá của sản phẩm được nâng cao 30 – 50%, đặc biệt sau thời gian chuyển đổi, cây chè được sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh, phân hữu cơ tự chế biến… đã hồi phục, đất được cải tạo, mầu mỡ hơn, chất lượng chè được nâng cao và được tiêu thụ với giá cao hơn. Điều đó đã mang lại sự tin tưởng về phương thức canh tác bền vững của người dân trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ và mức độ tiêu thụ sản phẩm chè hữu cơ Thái Nguyên ngày càng nhiều trên thị trường trong nước.

Những thuận lợi, khó khăn, thách thức trong sản xuất chè hữu cơ ở Thái Nguyên

Thuận lợi và cơ hội

Kết quả đạt được sau 4 năm thực hiện sản xuất chè hữu cơ của tỉnh tuy còn hạn chế nhưng đó là sự chuyển đổi to lớn về nhận thức và phương thức canh tác của người làm chè Thái Nguyên. Để có được kết quả trên là do các yếu tố thuận lợi như sau:

- Cây chè gắn bó với người dân Thái Nguyên từ lâu đời, người dân có kinh nghiệm và truyền thống làm chè, nhất là trước đây là có thời gian dài chè là cây vườn nhà, phù hợp với canh tác hữu cơ. Cây chè có khả năng thích ứng rộng nên được trồng ở cả 9/9 huyện, thành phố của tỉnh Thái Nguyên. Nhiều vùng chè của Thái Nguyên có diện tích tương đối tập trung: Huyện Đại Từ, huyện Phú Lương, huyện Đồng Hỷ, huyện Định Hóa và TP. Thái Nguyên, nên dễ khoanh vùng, tạo vùng cách ly để có thể chuyển đổi từ sản xuất thông thường sang sản xuất hữu cơ.

- Đã có nhiều chính sách thúc đẩy NNHC: Chỉnh phủ đã có Nghị định 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 về “Nông nghiệp hữu cơ” và Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 phê duyệt đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030” và đã có các tiêu chuẩn quốc gia: TCVN 11041 -2: 2017 về Trồng trọt hữu cơ và TCVN 11041 -6: 2018 về Chè Hữu cơ. Đồng thời tỉnh Thái Nguyên đã có đề án “Phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó có các nội dung và chính sách hỗ trợ cho phát triển chè hữu cơ.

- Khoa học công nghệ trong chọn tạo, nhân giống, sản xuất, chế biến chè hữu cơ ngày càng phát triển, nhất là tạo ra các vật tư đầu vào phục vụ cho canh tác chè đạt tiêu chuẩn hữu cơ trong nước và quốc tế. Do vậy công tác giống và kỹ thuật canh tác chè hữu cơ ở Thái Nguyên đã được nghiên cứu và ứng dụng: Sử dụng các bộ giống thích hợp cho sản xuất chè hữu cơ: Trung Du, LDP1,TRI777, các giống chè nhập nội chất lượng tốt đã được trồng lâu năm và thích nghi ở Thái Nguyên; các công nghệ tưới, che sáng, sử dụng phân hữu cơ sinh học thay thể cho phân khoáng, sử dụng nấm đối kháng, các chế phẩm sinh học… để phòng trừ sâu bệnh hại, đám bảo cho chất lượng sản phẩm chè hữu cơ và tính toàn vẹn của canh tác hữu cơ.

- Trước đây, tỉnh Thái Nguyên đã từng có các mô hình sản xuất chè hữu cơ với các hình thức tổ chức khác nhau: hộ gia đình, THT, doanh nghiệp thực hiện canh tác hữu cơ và được chứng nhận hữu cơ của các tổ chức chứng nhận quốc tế: IFOAM, ACT tạo tiền đề và cơ sở thực tiễn cho việc chuyển đổi sản xuất chè hữu cơ thành công.

- Hiện nay tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và chuẩn OCOP (3 – 5 sao) có giá trị và đã được thị trường biết đến, là điều kiện thuận lợi để có thể chuyển cấp sản phẩm sang sản phẩm chè Hữu cơ.

- Chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè hữu cơ bước đầu được hình thành (18 chuỗi) với các tác nhân có trách nhiệm với sản phẩm hữu cơ tham gia, tạo điều kiện cho các sản phẩm chè hữu cơ có chỗ đứng trên thị trường nội địa và xuất khẩu.

- Sản phẩm chè hữu cơ có tiềm năng để đa dạng hóa sản phẩm, tạo các sản phẩm mới thích hợp với nhiều thị trường, nhiều ngành hàng: chè matcha, chè dược liệu…

Khó khăn và thách thức

Nhận thức về canh tác hữu cơ và sản phẩm chè hữu cơ còn hạn chế ở cả người sản xuất và nhà quản lý.

Quy mô sản xuất chè chủ yếu là hộ gia đình, nhiều vườn chè phân tán, xen kẽ với khu dân cư nên khó khăn cho việc tạo vùng sản xuất quy mô lớn, vùng cách ly, dẫn đến tính “Toàn vẹn hữu cơ” không đảm bảo trong sản xuất, thu hoạch và chế biến.

Năng suất và sản lượng chè khi chuyển đổi sang canh tác hữu cơ bị sụt giảm (30 – 40% so với sản xuất thông thường), mẫu mã sản phẩm chè kém (nhất là đối với dòng sản phẩm chè búp, chè nõn, chè đinh – là loại tiêu thụ chính trên thị trường nội địa), dẫn đến ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất.

Người tiêu dùng chưa tin tưởng và khó phân biệt giữa sản phẩm sản xuất hữu cơ và các sản phẩm thông thường khác;

Nhân sự được đào tạo và có kinh nghiệm về sản xuất Nông nghiệp hữu cơ chưa nhiều.

Hạ tầng phụ trợ (chứng nhận, xúc tiến thương mại, cơ chế đầu tư, dịch vụ đầu vào cho sản xuất hữu cơ…) còn hạn chế.

Đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng về chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm.

Rào cản thương mại về chất lượng sản phẩm chè hữu cơ trong nước và trên thế giới ngày càng khắt khe gây khó khăn cho tiêu thụ và xuất khẩu.

Yêu cầu về chứng nhận Hữu cơ quốc tế đối với các sản phẩm chè theo các tiêu chuẩn JAS, IFOAM, EU, USDA… rất chặt chẽ.

Các giải pháp trong phát triển chè hữu cơ trong thời gian tới

Chè là thức uống hàng ngày của người Việt, do vậy yêu cầu về sản phẩm sạch, an toàn, chất lượng lại càng cần thiết, các giải pháp chính trong phát triển sản xuất chè hữu cơ nói chung và chè hữu cơ của Thái Nguyên nói riêng là:

- Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức chung của toàn xã hội về vai trò của sản xuất và sử dụng sản phẩm chè hữu cơ, từ đó thay đổi hành vi, có thói quen áp dụng sản xuất hữu cơ, sử dụng sản phẩm hữu cơ; thực hiện từng bước vững chắc, xây dựng mô hình điểm và nhân rộng.

- Các địa phương có điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất và chế biến chè hữu cơ cần lựa chọn và xác định đối tượng (giống chè) và vùng sản xuất chè hữu cơ (nên lựa chọn các giống chè đã được chọn tạo phù hợp với điều kiện của địa phương, chọn các vùng ít bị tác động bởi quá trình canh tác thâm canh, dễ cách ly)… để tổ chức thực hiện các mô hình sản xuất chè hữu cơ, lồng ghép sản xuất chè hữu cơ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.

- Bản thân các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, nông dân cần tư duy, đầu tư xây dựng và thực hiện các dự án, mô hình sản xuất và chế biến chè hữu cơ theo chuỗi giá trị phù hợp quy hoạch và đặc thù địa phương, trong đó doanh nghiệp phải trở thành nòng cốt dẫn dắt, đa dạng hóa nhiều sản phẩm chè hữu cơ mang lại hiệu quả kinh tế cao; chú trọng thực hiện theo tiêu chuẩn trong sản xuất, chế biến sản phẩm chè hữu cơ, đảm bảo chất lượng; chủ động trong xúc tiến thương mại, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè hữu cơ.

- Nhà nước có chính sách và đầu tư có trọng tâm khoa học và công nghệ trong sản xuất và chế biến chè hữu cơ: như đào tạo nguồn nhân lực, các đề tài, dự án, chương trình khoa học có tính ứng dụng cao như công nghệ sinh học trong sản xuất chè hữu cơ, nghiên cứu quy trình canh tác, chế biến phù hợp; nghiên cứu các vật tư đầu vào phục vụ cho canh tác và chế biến chè hữu cơ: phân bón sinh học, thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Nghiên cứu chọn tạo giống chè mới có năng suất, chất lượng cao, có khả năng chống chịu với dịch hại tốt, phù hợp với quy trình canh tác hữu cơ và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Phát triển nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu, được thể hiện rõ trong Quyết định số 150/QĐ-Ttg ngày 28/01/2022 về Phê duyệt “Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050” là “… Sản xuất nông nghiệp có trách nhiệm, hiện đại, hiệu quả và bền vững; phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải các-bon thấp, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu”. Thực hiện chiến lược này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất chè, bảo vệ sức khỏe của người sản xuất và người tiêu dùng, tạo môi trường sinh thái, nâng cao thương hiệu sản phẩm “chè Thái Nguyên” ở trong nước và quốc tế.n

Bài liên quan

Quảng Ninh: Hỗ trợ 15 tỷ đồng cho các tỉnh Lào Cai, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng

Quảng Ninh: Hỗ trợ 15 tỷ đồng cho các tỉnh Lào Cai, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng

Trước những thiệt hại nặng nề do mưa lũ gây ra, tỉnh Quảng Ninh đã hỗ trợ 15 tỷ đồng cho các tỉnh Lào Cai, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng để khắc phục hậu quả thiên tai.
Thái Nguyên: Nâng cao giá trị sản xuất chè "sạch"

Thái Nguyên: Nâng cao giá trị sản xuất chè "sạch"

Để nâng cao giá trị thu được từ cây chè, việc mở rộng diện tích áp dụng các quy trình sản xuất “sạch” để tạo ra sản phẩm an toàn, đáp ứng nhu cầu thị trường là một trong những mục tiêu mà tỉnh hướng đến.
Thái Nguyên: Những lợi thế để nông, lâm nghiệp bứt phá

Thái Nguyên: Những lợi thế để nông, lâm nghiệp bứt phá

Sau khi sáp nhập, tỉnh Thái Nguyên sẽ có diện tích đất nông, lâm nghiệp khá lớn (trên 700 nghìn héc-ta), trong đó có hơn 150 nghìn héc-ta đất sản xuất nông nghiệp gồm đất trồng lúa, trồng cây hằng năm, cây lâu năm
Khởi tố chủ xưởng sản xuất "chè Thái Nguyên" giả thu lợi gần 46 tỉ đồng

Khởi tố chủ xưởng sản xuất "chè Thái Nguyên" giả thu lợi gần 46 tỉ đồng

Đinh Văn Vương đã tự thiết kế logo nhãn hiệu Chè Thái Nguyên để dán vào các gói chè, doanh thu từ tháng 11/2024 đến nay là gần 46 tỉ đồng.
Phổ Yên: Đẩy mạnh đầu tư công, tăng cường thu ngân sách tạo đà phát triển

Phổ Yên: Đẩy mạnh đầu tư công, tăng cường thu ngân sách tạo đà phát triển

Trong 6 tháng đầu năm 2025, thành phố Phổ Yên (tỉnh Thái Nguyên) đã tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, huy động tối đa các nguồn lực, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, qua đó từng bước tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiến độ thực hiện các công trình trọng điểm, đồng thời đảm bảo cân đối thu - chi ngân sách, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế và nâng cao đời sống.
Người phụ nữ đam mê xây dựng thương hiệu chè hữu cơ

Người phụ nữ đam mê xây dựng thương hiệu chè hữu cơ

Trong bức tranh nông nghiệp Việt Nam, những tấm gương tiên phong như bà Trịnh Tú Anh - Giám đốc Hợp tác xã chè hữu cơ Tây Trúc Xanh là minh chứng sống động cho tinh thần khởi nghiệp, đổi mới và cống hiến vì cộng đồng. Sinh năm 1962, bà Trịnh Tú Anh đã dành trọn tâm huyết và trí tuệ để xây dựng mô hình chè hữu cơ tại Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Hành trình của bà không chỉ là câu chuyện về sự nghiệp cá nhân mà còn là biểu tượng của lòng kiên trì, khát vọng phát triển nông nghiệp bền vững và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Đa dạng kênh tiêu thụ hàng hóa: "Chìa khóa" phát triển bền vững nông nghiệp hữu cơ

Đa dạng kênh tiêu thụ hàng hóa: "Chìa khóa" phát triển bền vững nông nghiệp hữu cơ

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ mang lại nhiều lợi ích vượt trội về môi trường, sức khỏe và kinh tế. Tuy nhiên, để ngành này phát triển bền vững, việc đảm bảo đầu ra ổn định và có giá trị cho sản phẩm hữu cơ là yếu tố then chốt. Nếu không có các kênh tiêu thụ hiệu quả, nông dân sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì sản xuất và mở rộng quy mô. Bài viết này sẽ đi sâu vào các giải pháp đa dạng để tiêu thụ sản phẩm hữu cơ, từ các kênh truyền thống đến những phương thức tiếp cận hiện đại và sáng tạo.
Từ tiềm năng đến hiện thực hóa một nền nông nghiệp hữu cơ bền vững

Từ tiềm năng đến hiện thực hóa một nền nông nghiệp hữu cơ bền vững

Hai thập kỷ tới, bức tranh nông nghiệp Việt Nam hứa hẹn sẽ chứng kiến một sự chuyển mình mạnh mẽ, với nông nghiệp hữu cơ không còn là một xu hướng nhỏ lẻ mà sẽ trở thành một trụ cột quan trọng, định hình lại cách chúng ta sản xuất, tiêu thụ thực phẩm và tương tác với môi trường.
Có thiên tai, hoạn nạn mới thấy đoàn kết là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam

Có thiên tai, hoạn nạn mới thấy đoàn kết là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hình thành nên một truyền thống quý báu – đó là tinh thần đoàn kết. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, từ chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh cho đến những biến cố lớn của xã hội, tinh thần ấy luôn được phát huy mạnh mẽ, trở thành sợi dây gắn kết con người Việt Nam thành một khối thống nhất, giúp đất nước vượt qua mọi thử thách. Và có lẽ, chính trong những lúc hoạn nạn, thiên tai, truyền thống ấy lại càng tỏa sáng rõ rệt nhất.
Doanh nghiệp, HTX và Nông dân: "Tam giác trụ cột" trong phát triển Nông nghiệp hữu cơ

Doanh nghiệp, HTX và Nông dân: "Tam giác trụ cột" trong phát triển Nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ, với những cam kết về bảo vệ môi trường, sức khỏe con người và phát triển bền vững, đang ngày càng khẳng định vị thế là xu hướng tất yếu của tương lai. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ và hiệu quả của lĩnh vực này không thể thiếu sự chung tay và phối hợp nhịp nhàng của ba chủ thể quan trọng: doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) và người nông dân. Mỗi bên đóng một vai trò không thể thay thế, tạo thành một tam giác trụ cột vững chắc cho sự lớn mạnh của nông nghiệp hữu cơ.
VCCU:  Kiên trì mục tiêu đảm bảo người tiêu dùng tiếp cận hàng thật

VCCU: Kiên trì mục tiêu đảm bảo người tiêu dùng tiếp cận hàng thật

Thị trường tiêu dùng Việt Nam ngày càng sôi động, sự xuất hiện của hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng đã trở thành một vấn nạn nhức nhối. Tình trạng này không chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, niềm tin và sự phát triển bền vững của xã hội.
Nông nghiệp sinh thái là cách chúng ta lắng nghe và tôn trọng thiên nhiên

Nông nghiệp sinh thái là cách chúng ta lắng nghe và tôn trọng thiên nhiên

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, nhấn mạnh: “Nông nghiệp sinh thái không chỉ là một phương thức canh tác. Đó là cách chúng ta biết lắng nghe và tôn trọng thiên nhiên... Đó là tầm nhìn dài hạn để Việt Nam thực hiện các cam kết toàn cầu về biến đổi khí hậu, hướng tới phát thải ròng bằng '0' vào năm 2050, và 'gieo trồng' tương lai cho con cháu mai sau”.
Bí quyết giám sát và quản lý hiệu quả tiêu chuẩn hữu cơ

Bí quyết giám sát và quản lý hiệu quả tiêu chuẩn hữu cơ

Việc đảm bảo tính toàn vẹn của sản phẩm hữu cơ là yếu tố sống còn đối với sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp này. Người tiêu dùng tin tưởng vào nhãn mác hữu cơ như một cam kết về quy trình sản xuất thân thiện với môi trường, không sử dụng hóa chất tổng hợp và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Do đó, một hệ thống giám sát và quản lý tiêu chuẩn hữu cơ chặt chẽ và hiệu quả là vô cùng cần thiết, bao gồm nhiều cấp độ và sự tham gia của nhiều bên liên quan.
Bão lũ qua đi, nước mắt ở lại: Giải pháp nào cho người nông dân?

Bão lũ qua đi, nước mắt ở lại: Giải pháp nào cho người nông dân?

Không thể giảm thiểu được bão lũ nhưng có thể giảm thiểu tổn hại của thiên tai lũ quét, sạt lở đất, ngập úng... nhờ các biện pháp phòng chống bền vững như dự báo, cảnh báo sớm, điều tiết lũ trên hồ chứa và kỹ năng ứng phó thảm họa.
Vai trò then chốt của cơ quan khuyến nông đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp hữu cơ

Vai trò then chốt của cơ quan khuyến nông đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp hữu cơ

Trong giai đoạn nông nghiệp toàn cầu đang hướng tới sự bền vững, nông nghiệp hữu cơ nổi lên như một giải pháp ưu việt, mang lại lợi ích to lớn cho môi trường, sức khỏe con người và sự phát triển kinh tế nông thôn. Để hiện thực hóa tiềm năng của nông nghiệp hữu cơ, vai trò của các cơ quan khuyến nông trở nên vô cùng quan trọng, đóng vai trò là cầu nối, người hướng dẫn và là nguồn lực hỗ trợ đắc lực cho nông dân trên hành trình chuyển đổi và phát triển.
Vai trò của Chính quyền các cấp với sự phát triển nông nghiệp hữu cơ

Vai trò của Chính quyền các cấp với sự phát triển nông nghiệp hữu cơ

Chính quyền các cấp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo ra một "bệ đỡ" vững chắc cho sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ. Sự hỗ trợ này không chỉ giúp nông dân chuyển đổi sang phương pháp canh tác bền vững hơn mà còn góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng nông sản và đảm bảo sức khỏe cộng đồng. Dưới đây là những khía cạnh chính trong vai trò hỗ trợ của chính quyền đối với nông nghiệp hữu cơ:
Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ để nâng tầm giá trị gạo Việt

Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ để nâng tầm giá trị gạo Việt

Hội thảo “Xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo” do Công ty Cổ phần Phân bón Miền Nam phối hợp Công ty Cổ phần Nông nghiệp Gạo hữu cơ TD Sóc Trăng (Gạo Ông Du) tổ chức nhằm đưa ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả cho sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.
Đánh giá hoạt động khuyến nông cộng đồng theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tại các tỉnh Bắc Trung Bộ

Đánh giá hoạt động khuyến nông cộng đồng theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tại các tỉnh Bắc Trung Bộ

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức Hội nghị “Đánh giá hiệu quả hoạt động khuyến nông, khuyến nông cộng đồng trong thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tại các tỉnh Bắc Trung Bộ” tại phường Đông Hà, tỉnh Quảng Trị…
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính