![]() |
Mô hình sản xuất lúa hữu cơ ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. |
Có đi mới thấy đường dài…
Ngược về 25 năm trước, nông nghiệp hữu cơ (NNHC) ở Việt Nam gần như chưa có khái niệm rõ ràng. Một số mô hình canh tác tự nhiên, không dùng hóa chất vẫn tồn tại rải rác ở bản, làng miền núi, nhưng chưa được gọi là “hữu cơ” theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 2006, Việt Nam bắt đầu tiếp cận khái niệm nông nghiệp hữu cơ (NNHC) một cách có hệ thống hơn. Được sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ ADDA (Đan Mạch), Helvetas (Thụy Sĩ) - Việt Nam đã triển khai các dự án NNHC tại các tỉnh Lào Cai, Hòa Bình, Bến Tre, Trà Vinh... đạt được kết quả lớn. Sản xuất NNHC, tuy chưa trở thành phong trào nhưng tầm ảnh hưởng, sức thu hút khá rộng rãi các nhà khoa học, chính sách, người dân trong sản xuất kinh doanh.
Năm 2011, Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam được thành lập, nhằm tập hợp các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu, chứng nhận, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam. Thời kỳ kỳ đó, Hiệp hội rất khó khăn bởi 3 không: Không trụ sở, không tài chính, không tài liệu kỹ thuật. Nhưng bằng cả tình yêu, nỗ lực và những bước đi dẻo dai đầy mồ hôi, nước mắt của cán bộ Trung ương HND Việt Nam, đến những cơ sở có dự án, địa bàn có điều kiện sản xuất NNHC, đã làm nên kết quả rực rỡ.
Để rồi, năm 2017, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Liên đoàn các phong trào Nông nghiệp Hữu cơ quốc tế (IFOAM); Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 150/QĐ về Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, nhấn mạnh phát triển NNHC là hướng đi quan trọng để nâng cao giá trị và tính bền vững của ngành nông nghiệp. Cao hơn nữa là Văn kiện Đại hội Đảng XIII, ghi rõ: “Phát triển nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn...”.
![]() |
Mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng theo tiêu chuẩn hữu cơ ở HTX Nông nghiệp và dịch vụ Ngân Hà (xã Thanh Minh, TX. Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ). |
Đến nay, người khó tính đến đâu, cũng nhận thấy rằng, sản xuất NNHC, truyền thông, báo chí về NNHC đã có bước trưởng thành vượt bậc, đi từ không đến có, từ giản đơn đến sản xuất có quy trình, tiêu chuẩn, từ nhóm hộ đơn lẻ đến HTX, doanh nghiệp và phong trào. Nông sản hữu cơ từ tiêu thụ ở chợ dân sinh đã vươn ra thế giới, viết tiếp nên câu chuyện về mình.
Song, do thiếu chiến lược truyền thông tổng thể, dài hạn, bài bản. Truyền thông chưa gắn với lộ trình phát triển NNHC quốc gia, dẫn đến thiếu đồng bộ giữa tuyên truyền và hoạt động thực tiễn. Hình thức truyền thông vẫn dựa vào các phương tiện truyền thống như tờ rơi, phát thanh, loa phường, các hội nghị tập huấn. Thông tin về NNHC thiếu tính khoa học, chuyên môn không phù hợp với trình độ nhận thức của từng nhóm nông dân. Thiếu các nội dung truyền thông phân biệt rõ ràng giữa NNHC và nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao, dễ gây nhầm lẫn. Doanh nghiệp NNHC chưa chú trọng xây dựng thương hiệu, truyền thông sản phẩm nên hàng hóa hữu cơ khó tạo niềm tin với người tiêu dùng. Và chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước – doanh nghiệp – nông dân – chuyên gia truyền thông trong xây dựng chiến dịch truyền thông hiệu quả.
Tiếng gọi trưởng thành
Người tiêu dùng trong nước ngày càng quan tâm đến thực phẩm an toàn, không hóa chất, giữ được hương vị, tươi ngon từ cánh đồng về bàn ăn. Thị trường quốc tế, đặc biệt là châu Âu, Mỹ và Nhật Bản có nhu cầu lớn, mở ra cơ hội xuất khẩu cho Việt Nam. Trong cơ hội ấy, truyền thông đóng vai trò then chốt: Từ việc nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi đến tạo dựng thị trường và kết nối hệ sinh thái hỗ trợ để phát triển NNHC trở thành một xu hướng chủ đạo trong phát triển nông nghiệp bền vững, với vai trò cụ thể như:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy từ sản xuất truyền thống sang canh tác hữu cơ bền vững để bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường, tăng giá trị sản phẩm
Thứ hai, truyền tải kiến thức, kỹ thuật và mô hình trong chuyển giao tri thức khoa học, kỹ thuật canh tác hữu cơ, quản lý dịch hại sinh học, sử dụng phân bón hữu cơ, quy trình chứng nhận và giới thiệu các mô hình sản xuất thành công, tạo động lực học tập và áp dụng thực tiễn
Thứ ba, kết nối thị trường và xây dựng thương hiệu giúp người tiêu dùng hiểu, tin tưởng sản phẩm hữu cơ. Từ đó, tạo cầu thị trường ổn định cho sản xuất, kinh doanh. Hỗ trợ xây dựng quy trình, tiêu chuẩn, truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu nông sản hữu cơ, thúc đẩy tiêu thụ, gia tăng giá trị và lợi nhuận cho các bên tham gia
Thứ tư, tạo áp lực chính sách và huy động hỗ trợ thông qua việc nắm, phản ánh tiếng nói của nông dân, doanh nghiệp về nhu cầu thực tiễn. Từ đó, góp phần thúc đẩy xây dựng chính sách hỗ trợ NNHC phát triển theo hệ sinh thái và lợi thế vùng miền. Đồng thời, gây dựng sự quan tâm của cộng đồng, tổ chức xã hội và các nhà tài trợ để huy động nguồn lực đầu tư
Thứ năm, gắn kết các bên liên quan thông qua tổ chức các sự kiện, tạo diễn đàn đối thoại giữa nông dân, nhà khoa học, doanh nghiệp, chính quyền và người tiêu dùng. Thúc đẩy chuỗi giá trị NNHC hoạt động hiệu quả và minh bạch.
Diện tích canh tác hữu cơ: ~174.000 ha Tỷ lệ so với tổng diện tích đất nông nghiệp: Khoảng 1,5% Số lượng nhà sản xuất hữu cơ: Trên 17.000 hộ/cơ sở Giá trị xuất khẩu sản phẩm hữu cơ: Trên 335 triệu USD/năm Thị trường tiêu thụ chính: Nhật Bản, EU, Mỹ, Hàn Quốc, Singapore (Số liệu tổng hợp từ nguồn: VOAA, TCTK, IFoam Asian năm 2023) |
Truyền thông, báo chí là một thành tố trong “hệ sinh thái cải cách” nông nghiệp Việt Nam bước vào quỹ đạo phát triển mới. Trong nghĩa rộng, báo chí cần chuyển dần từ vai trò người quan sát sang vai trò người trực tiếp tham gia vào quá trình kiến tạo môi trường sản xuất, kinh doanh lành mạnh, công bằng và phát triển bền vững. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều quốc gia phát triển, báo chí được xem là “cột trụ thứ tư” của nền dân chủ - là nơi giám sát quyền lực, phản ánh thực tiễn và thúc đẩy tiến bộ thông qua quyền lực mềm của thông tin./.