Thứ tư 10/12/2025 03:45Thứ tư 10/12/2025 03:45 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Nhà bác học Lương Định Của, người đặt nền móng cho nền nông nghiệp hiện đại Việt Nam

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Trong lịch sử nông nghiệp Việt Nam, tên tuổi bác sỹ nông học Lương Định Của sáng ngời như một vì sao, gắn liền với những đóng góp to lớn trong công cuộc cải tạo giống cây trồng, đưa nền nông nghiệp nước nhà bước sang một trang sử mới.
Nhà bác học Lương Định Của, người đặt nền móng cho nền nông nghiệp hiện đại Việt Nam
Chân dung bác sỹ nông học Lương Định Của.

Ông không chỉ là một nhà khoa học tài ba mà còn là một người con ưu tú của quê hương Sóc Trăng nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung, một tấm gương sáng về lòng yêu nước, tinh thần say mê khoa học và ý chí kiên cường vượt khó. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ nhà khoa học và những người làm nông nghiệp Việt Nam.

Lương Định Của sinh ngày 16 tháng 8 năm 1920 tại làng Đại Ngãi, quận Kế Sách (nay là thị trấn Đại Ngãi, huyện Long Phú), tỉnh Sóc Trăng, trong một gia đình trí thức giàu lòng yêu nước. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, ham học. Sau khi học xong bậc tiểu học tại Sóc Trăng và trung học tại Sài Gòn, ông được gia đình tạo điều kiện sang Nhật Bản du học vào năm 1939. Tại đây, ông theo học tại Trường Đại học Nông nghiệp Tokyo (nay là Đại học Tokyo). Với sự thông minh và nỗ lực không ngừng, ông đã hoàn thành xuất sắc chương trình học và được nhận bằng Cử nhân Nông học vào năm 1943. Sau đó, ông tiếp tục nghiên cứu và được Hội đồng khoa học Trường Đại học Tổng hợp Kyoto nhất trí cấp học vị Bác sĩ Nông học, học vị cao nhất ở Nhật Bản lúc bấy giờ. Ông là người trẻ nhất và cũng là người nước ngoài duy nhất được cấp học vị này tại Nhật Bản, một minh chứng cho tài năng và sự xuất sắc của ông. Năm 1945, Lương Định Của lập gia đình với Nobuko Nakamura, 23 tuổi, một nữ sinh viên quê ở Kyushu, vừa tốt nghiệp Đại học Nữ công.

Tháng 9/1945, hay tin nước nhà độc lập, ông hăm hở muốn tìm cách trở về quê hương ngay nhưng rồi theo lời khuyên của anh em là cần phải trau dồi thêm tri thức để có thể trở về giúp ích nước nhà, Lương Định Của nén lòng ở lại nước Nhật và làm việc trong Viện Thực nghiệm, Trường Đại học Quốc lập Kyushu. Một thời gian sau, Lương Định Của tiếp tục ghi tên học ngành Di truyền chọn giống ở Tây Kinh (Kyoto), chuyên sâu về tế bào học. Với sự thông minh, nghiêm túc và cần cù trong học tập, nghiên cứu, Lương Định Của đã tốt nghiệp, được nhận bằng Bác sĩ Nông học loại ưu. Đây là học vị cao nhất trong ngành Nông học Nhật Bản và Lương Định Của là người thứ 94 và là người trẻ nhất và cũng là người nước ngoài duy nhất được cấp học vị này tại Nhật Bản thời điểm này, một minh chứng cho tài năng và sự xuất sắc của ông trên nước Nhật. Chính phủ Nhật phong Lương Định Của là Giáo thụ trường Đại học Quốc lập Kyushu. Từ bỏ một vị trí mà theo các chuyên gia lương không dưới 3 cây vàng/tháng để về nước trong hoàn cảnh chiến tranh thực sự là một quyết định không dễ dàng.

Nhưng với ông, tình yêu quê hương đất nước luôn cháy bỏng. Năm 1952, được sự đồng tâm của người vợ Nhật, Lương Định Của và vợ cùng 2 người con đã xuống tàu sang Hồng Kông để tìm đường về nước. Đến Hồng Kông, toàn bộ đồ đạc bị thất lạc, nhờ sự giúp đỡ của một người bạn học là Trương Văn Hi, Lương Định Của và gia đình nhỏ của mình mới về đến Sài Gòn an toàn cùng với một chiếc va-li lúa giống mà ông luôn cẩn thận mang theo người. Được tin Lương Định Của về nước, Chính quyền thân Pháp ở Sài Gòn cử người đến tiếp xúc, hứa hẹn nhiều việc làm và chức vụ cho ông, kể cả kế hoạch giao cho ông phụ trách một cơ sở nghiên cứu nông nghiệp ở Mỹ Tho.

Viện cớ mới về nước, không am hiểu được tình hình, nên ông chỉ nhận “một chân hợp đồng” ở Bộ Canh nông và ngấm ngầm tìm cách liên lạc với cơ sở kháng chiến. Sau gần 2 năm chờ đợi, Thành ủy Sài Gòn bí mật cử giao liên đưa gia đình ông theo đoàn cán bộ tập kết ra Bắc vào cuối năm 1954. Trong 2 năm đầu ở miền Bắc, Lương Định Của được phân công ở bộ phận Tổ lúa, rồi làm nhiệm vụ Phó phòng Khảo cứu thuộc Viện Nghiên cứu Nông lâm, còn bà Nakamura Nobuko được nhận vào công tác trong một phòng khác thuộc Viện. Sau đó, do con đông, lại thường xuyên đau yếu, nên bà Nobuko Nakamura phải xin nghỉ việc để chăm sóc con cái, đến năm 1962 mới làm việc lại ở Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Nói đến Lượng Định Của không thể nói về vợ ông, một phụ nữ Nhật Bản thủy chung son sắt yêu chồng, thương con vô bờ bến. Bà là hậu phương vững chắc của chồng trên mỗi bước đường gian nan của thời chiến tranh.

Nhà bác học Lương Định Của, người đặt nền móng cho nền nông nghiệp hiện đại Việt Nam
Tượng đài nhà nông học Lương Định Của tại quê hương Sóc Trăng

Sau khi hòa bình lập lại, ông được giao nhiều trọng trách trong ngành nông nghiệp. Từ năm 1963 đến 1967, ông giữ chức Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp. Từ năm 1968 đến ngày mất (28 tháng 12 năm 1975), ông là Viện trưởng Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm. Ông cũng là đại biểu Quốc hội liên tục các khóa II, III, IV và V, thể hiện sự tín nhiệm của nhân dân đối với những đóng góp của ông.

Sự nghiệp khoa học của Lương Định Của gắn liền với những công trình nghiên cứu và cải tạo giống cây trồng, đặc biệt là lúa gạo. Ông được mệnh danh là “cha đẻ” của nhiều giống lúa mới, có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện canh tác của Việt Nam. Một trong những thành tựu nổi bật của ông là việc lai tạo thành công giống lúa Nông nghiệp 1, giống lúa lai đầu tiên ở nước ta, được lai tạo giữa giống lúa Ba Thắc (Nam Bộ) với giống lúa Bun Kô (Nhật Bản). Giống lúa này đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất lúa gạo, giải quyết vấn đề lương thực cho đất nước trong giai đoạn khó khăn. Bên cạnh đó, ông còn nghiên cứu và lai tạo thành công nhiều giống lúa khác như giống lúa Mùa muộn, giống lúa Chiêm 314, giống lúa 388 (được phân lập từ dòng IR8 hay là Nông nghiệp 8), giống lúa Xuân sớm (Nông nghiệp 75-1),... Những giống lúa này không chỉ có năng suất cao mà còn có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, thích ứng với nhiều điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng khác nhau.

Không chỉ tập trung vào nghiên cứu giống lúa, Lương Định Của còn có những đóng góp quan trọng trong việc cải tiến kỹ thuật canh tác. Ông đã đề xướng mô hình canh tác “bờ vùng, bờ thửa”, “cấy nông tay thẳng hàng”, “đảm bảo mật độ”, được hàng triệu nông dân Việt Nam áp dụng thành công trên diện rộng, tạo ra một cuộc cách mạng trong nông nghiệp. Những phương pháp này giúp tiết kiệm nước, phân bón, giảm thiểu sâu bệnh, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Ông luôn tâm niệm rằng khoa học phải gắn liền với thực tiễn, phục vụ sản xuất và đời sống của người dân. Ông thường xuyên xuống đồng ruộng, trực tiếp hướng dẫn nông dân áp dụng các kỹ thuật canh tác mới, lắng nghe ý kiến và kinh nghiệm của họ. Tên ông từng được nông dân gọi liền với tên của sản phẩm một cách thân thiết: dưa ông Của, cà chua ông Của, khoai ông Của, lúa ông Của... Còn bạn bè trìu mến gọi ông là “nhà bác học của đồng ruộng”. Ông được đánh giá là một trong những chuyên gia nông nghiệp hàng đầu của Việt Nam và là một nhà khoa học có uy tín trên thế giới.

Lương Định Của không chỉ là một nhà khoa học mà còn là một nhà giáo, một người thầy tận tâm. Ông đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, truyền đạt cho họ kiến thức, kinh nghiệm và lòng yêu nghề. Ông luôn khuyến khích học trò học tập, nghiên cứu, sáng tạo, góp phần xây dựng nền nông nghiệp nước nhà ngày càng phát triển. Ông cũng là một nhà văn, nhà báo, với nhiều bài viết và công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước. Những tác phẩm của ông không chỉ có giá trị khoa học mà còn mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện tình yêu quê hương đất nước và lòng trắc ẩn với người nông dân.

Cuộc đời và sự nghiệp của Lương Định Của là một tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, lòng say mê khoa học và ý chí kiên cường vượt khó. Ông đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước. Những đóng góp của ông đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận và tôn vinh. Ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vào năm 1967. Tên tuổi của ông đã trở thành biểu tượng cho sự cống hiến, tài năng và đức độ của người trí thức Việt Nam. Tên ông được đặt cho một con đường ở thủ đô Hà Nội. Tỉnh Sóc Trăng quê hương ông đã xây dựng nhà tưởng niệm ông.

Ngày nay, những thành tựu của Lương Định Của vẫn tiếp tục được kế thừa và phát huy. Các thế hệ nhà khoa học và những người làm nông nghiệp Việt Nam luôn ghi nhớ công ơn của ông, tiếp tục nỗ lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp phần xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam ngày càng hiện đại, bền vững và hội nhập quốc tế. Cuộc đời ông luôn gắn bó với đồng ruộng và luôn ước mơ người nông dân giàu lên từ đồng ruông, sinh thời ông luôn sắn quần lội ruông như một người nông dân thực thụ. Ông mất khi còn khá trẻ, một mất mát vô cùng lớn với đất nước, với dân tộc nhưng tên tuổi Lương Định Của sẽ mãi mãi được khắc ghi trong lịch sử nông nghiệp và đất nước Việt Nam, là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ mai sau./.

Bài liên quan

CÁC TIN BÀI KHÁC

Đề xuất cơ chế mở đường hướng tới chuỗi giá trị nông nghiệp xanh

Đề xuất cơ chế mở đường hướng tới chuỗi giá trị nông nghiệp xanh

Nghị định 98/2018/NĐ-CP sau hơn 6 năm triển khai được nhìn nhận là một bước đi trúng trọng tâm, tạo khung pháp lý và cơ chế hỗ trợ tài chính thúc đẩy liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Tuy nhiên, từ thực tế đã bộc lộ những hạn chế, khiến doanh nghiệp và hợp tác xã (HTX) gặp khó khăn, cần phải được sửa đổi để đáp ứng tốt hơn sự đòi hỏi của thực tiễn. Dự thảo nghị định thay thế Nghị định 98/2018/NĐ-CP bổ sung cơ chế khuyến khích phát triển chuỗi giá trị xanh và vùng nguyên liệu đạt chuẩn phục vụ xuất khẩu.
Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Tiềm năng cần được "đánh thức"

Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam: Tiềm năng cần được "đánh thức"

Với lịch sử canh tác hữu cơ đã hình thành từ lâu, nông nghiệp Việt Nam là ngành có lợi thế so sánh bởi tính đa dạng và quy mô sản lượng, chất lượng hàng đầu thế giới. Cùng với đó, các nông sản có nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác hợp lý, đặc biệt là thủy sản, rau quả và dược liệu, song do cơ chế chính sách và đầu tư quảng bá xúc tiến thương mại, khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất hữu cơ còn hạn chế, diện tích nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam còn chưa khai thác hết tiềm năng.
Bộ Chính trị yêu cầu hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ

Bộ Chính trị yêu cầu hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ

Đồng chí Trần Cẩm Tú - Thường trực Ban Bí thư thay mặt Bộ Chính trị, đã ký ban hành Kết luận số 219-KL/TW ngày 26/11/2025 về việc tiếp tục triển khai Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Kết luận của Bộ Chính trị yêu cầu cần đẩy mạnh cơ cấu lại theo hướng phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải thấp, bảo vệ môi trường sinh thái...
Khi doanh nghiệp và khuyến nông cùng "giải mã" bài toán tăng trưởng xanh

Khi doanh nghiệp và khuyến nông cùng "giải mã" bài toán tăng trưởng xanh

Ngày 1/12, tại thành phố Hồ Chí Minh, Tọa đàm “Hợp tác công - tư: Khuyến nông với Doanh nghiệp” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đã trở thành một sự kiện mang tính bước ngoặt. Đây không chỉ là một cuộc gặp gỡ trao đổi mô hình, mà được chính các bên tham gia nhìn nhận là “cú hích” để tái tạo sức mạnh hệ thống khuyến nông trong bối cảnh nông nghiệp xanh, tuần hoàn và chuyển đổi số.
Canh tác cà phê trong nông lâm kết hợp: Sự trải nghiệm "học đi đôi với làm"

Canh tác cà phê trong nông lâm kết hợp: Sự trải nghiệm "học đi đôi với làm"

Trong khuôn khổ dự án hợp tác KVP 1052 giữa Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam (VOAA) và Hiệp hội Nông dân Hữu cơ Đức Naturland, chương trình tham quan, học tập “Canh tác cà phê trong nông lâm kết hợp” diễn ra 4 ngày (từ ngày 24 - 27/11/2025) tại xã Bảo Thuận, tỉnh Lâm Đồng đã mang đến cho học viên trải nghiệm “học đi đôi với làm”, từ đó giúp người học có cách nhìn cụ thể hơn về con đường phát triển cà phê hữu cơ gắn với hệ sinh thái rừng bền vững.
Phấn đấu mục tiêu đạt 1 triệu ha lúa "xanh" vào năm 2030

Phấn đấu mục tiêu đạt 1 triệu ha lúa "xanh" vào năm 2030

Ngày 27/11, tại Cần Thơ, Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) phối hợp Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy mở rộng diện tích sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp hướng đến mục tiêu 1 triệu ha vào năm 2030”.
Phát huy hiệu quả liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp

Phát huy hiệu quả liên kết giữa hợp tác xã và doanh nghiệp

Diễn đàn Kinh tế hợp tác, hợp tác xã năm 2025 chính là một diễn đàn mở, là cơ hội để "4 nhà" (nhà doanh nghiệp, nhà hợp tác xã, nhà khoa học và Nhà nước) cùng tích cực trao đổi, tương tác để làm rõ ý nghĩa, vai trò và thực trạng và đề xuất các giải pháp cho hoạt động liên kết giữa doanh nghiệp và hợp tác xã (HTX).
Organic Farming - đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế và trách nhiệm xã hội

Organic Farming - đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế và trách nhiệm xã hội

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét và áp lực phát triển bền vững trở thành đòi hỏi cấp thiết, nông nghiệp hữu cơ (Organic Farming) nổi lên như một hướng đi mang tính chiến lược.
Xuất khẩu gỗ cán mốc 16,5 tỷ USD: Nỗ lực vượt “gọng kìm” rào cản thương mại

Xuất khẩu gỗ cán mốc 16,5 tỷ USD: Nỗ lực vượt “gọng kìm” rào cản thương mại

Dù kim ngạch xuất khẩu gỗ đạt 16,5 tỷ USD trong 11 tháng năm 2025, tăng 5,4% so với cùng kỳ, ngành gỗ Việt Nam vẫn đang đối mặt với “cơn gió ngược” từ các quy định môi trường khắt khe của Liên minh châu Âu (EUDR) và làn sóng điều tra phòng vệ thương mại chưa từng có từ Hoa Kỳ. Tại Hội nghị tháo gỡ khó khăn, rào cản thương mại, mở rộng phát triển thị trường xuất khẩu gỗ và lâm sản, các nhà quản lý, chuyên gia và doanh nghiệp đã cùng thảo luận kịch bản ứng phó nhằm giữ vững vị thế quốc gia xuất khẩu gỗ hàng đầu thế giới, từng bước chuyển từ gia công sang xây dựng thương hiệu trên nền tảng chuỗi cung ứng xanh, minh bạch.
Làng nghề Việt Nam: Nơi hội tụ truyền thống, nâng tầm sản phẩm OCOP

Làng nghề Việt Nam: Nơi hội tụ truyền thống, nâng tầm sản phẩm OCOP

Làng nghề Việt Nam là nơi hội tụ của truyền thống, kỹ năng thủ công và sáng tạo nghệ thuật, phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc và tinh thần lao động của người Việt qua nhiều thế hệ.
Trồng keo mang lợi trước mắt nhưng nguy cơ lũ dữ và sạt lở đất cao

Trồng keo mang lợi trước mắt nhưng nguy cơ lũ dữ và sạt lở đất cao

Miền Trung - Tây Nguyên đối mặt mưa lũ, sạt lở do đồi keo bị khai thác trơ trụi, mất khả năng giữ đất và điều tiết nước, làm gia tăng lũ quét.
Nâng tầm vị thế cà phê Lâm Đồng: Hướng tới phát triển bền vững và hiện đại 4.0

Nâng tầm vị thế cà phê Lâm Đồng: Hướng tới phát triển bền vững và hiện đại 4.0

Ngành cà phê Lâm Đồng đang bước vào một giai đoạn phát triển mới đầy hứa hẹn, tập trung vào tính bền vững, hiện đại và nâng cao giá trị sản phẩm. Đây là nội dung cốt lõi trong văn bản chỉ đạo của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng, ban hành ngày 18/11 sau Hội nghị tổng kết chương trình tái canh, ghép cải tạo cà phê giai đoạn 2021-2025 và đề xuất kế hoạch cho giai đoạn 2026-2030.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính