![]() |
| Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, yêu cầu nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường trở nên cấp thiết. |
Những kết quả tích cực
Kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực, việc ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã đạt nhiều kết quả tích cực, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Hệ thống thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường tiếp tục được hoàn thiện đồng bộ, kịp thời. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã ban hành hơn 500 văn bản triển khai thi hành Luật, qua đó thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng, Nhà nước, khẳng định quan điểm phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, từng bước chuyển sang quản lý môi trường bằng các công cụ kinh tế với sự tham gia của toàn xã hội.
Nguồn lực cho bảo vệ môi trường được quan tâm hơn, thể hiện qua tỷ lệ chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường năm 2024 đạt khoảng 1,12% tổng chi ngân sách. Nhờ đó, nhiều chỉ tiêu môi trường quan trọng đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tiếp tục được cải thiện, thuộc nhóm dẫn đầu ASEAN.
Công tác kiểm soát các nguồn thải lớn được tăng cường, không để xảy ra sự cố môi trường nghiêm trọng. Nhiều mô hình đô thị sinh thái, nông thôn xanh, khu công nghiệp và cơ sở sản xuất thân thiện với môi trường được hình thành, góp phần tạo chuyển biến rõ nét trong tư duy và phương thức phát triển.
Quản lý chất thải có nhiều tiến bộ, với tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đạt 97,28% tại đô thị và 80,5% tại nông thôn; tỷ lệ chôn lấp trực tiếp từng bước giảm. Hoạt động tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ chất thải được đẩy mạnh, góp phần giảm lượng chất thải tồn lưu và phát huy giá trị tài nguyên.
Chất lượng môi trường tiếp tục được cải thiện trên nhiều phương diện; tốc độ gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường từng bước được kiềm chế, chất lượng môi trường đất, nước và biển ven bờ có chuyển biến tích cực.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, năng lực ứng phó và thích ứng được nâng lên; kiểm kê khí nhà kính tại doanh nghiệp từng bước triển khai; chuyển đổi xanh hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được thúc đẩy, cùng với việc hình thành hành lang pháp lý cho thị trường các-bon và phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
![]() |
| Tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và các thành phố lớn khác đang ở mức đáng báo động. Ảnh minh họa. |
Những hạn chế cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc quy định chi tiết và tổ chức thực hiện Luật Bảo vệ môi trường vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra tại nhiều nơi, có thời điểm diễn biến nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí do bụi mịn tại các đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Chất lượng môi trường nước tại một số lưu vực sông, nhất là sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy và hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải, chậm được cải thiện.
Hạ tầng kỹ thuật môi trường còn yếu, nhất là trong thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt và nước thải. Tỷ lệ cụm công nghiệp, làng nghề có hệ thống xử lý nước thải đạt quy chuẩn còn thấp; chỉ khoảng 18% nước thải đô thị được thu gom, xử lý. Tỷ lệ chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt tuy giảm nhưng vẫn ở mức cao; vẫn còn 38 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa được xử lý triệt để.
Hoạt động tuần hoàn, tái sử dụng nước thải và tái chế chất thải công nghiệp còn hạn chế; chất thải nguy hại từ hộ gia đình và một số cơ sở y tế chưa được phân loại, thu gom và xử lý hiệu quả. Việc kiểm soát nhập khẩu công nghệ cũ, lạc hậu còn chưa chặt chẽ.
Một số mục tiêu chính sách của Luật Bảo vệ môi trường triển khai chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, đặc biệt trong việc điều chỉnh hành vi tiêu dùng thông qua thuế, phí môi trường; nâng cao hiệu quả Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam và chất lượng dịch vụ tư vấn môi trường. Tình trạng vi phạm, khiếu nại, tố cáo về môi trường vẫn xảy ra tại một số địa phương, có vụ việc phức tạp, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Những hạn chế trên chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, bao gồm nhận thức và trách nhiệm của một bộ phận cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp và người dân chưa đầy đủ; tư duy ưu tiên tăng trưởng kinh tế ngắn hạn; chính sách chưa đồng bộ; nguồn lực cho bảo vệ môi trường còn hạn chế; nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” chưa được thực hiện nghiêm; năng lực quản lý, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm ở một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu.
Trong bối cảnh công tác bảo vệ môi trường đã đạt được nhiều kết quả quan trọng nhưng vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật và siết chặt kỷ cương quản lý môi trường trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trên cơ sở Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2025, sau khi xem xét Báo cáo giám sát chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực, cùng ý kiến của các đại biểu Quốc hội, sáng 10/12/2025, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết số 247/2025/QH15 về “Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường” với 442/444 đại biểu có mặt tán thành, chiếm 93,45%. Nghị quyết được ban hành nhằm tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng, định hướng các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường trong giai đoạn tới. |
Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong giai đoạn mới
Nhằm phát huy kết quả đạt được, khắc phục hạn chế và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong giai đoạn mới, Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ các kiến nghị giám sát, tập trung thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường: Tiếp tục quán triệt quan điểm không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế ngắn hạn, coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển lâu dài. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu môi trường gắn với trách nhiệm người đứng đầu; từng bước tích hợp chỉ tiêu tăng trưởng các-bon thấp vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật, thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế và thực hiện nghiêm nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả”. Đồng thời, cải cách thủ tục hành chính, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, gắn phân cấp với trách nhiệm giải trình.
![]() |
| Đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho công tác bảo vệ môi trường. |
Thứ hai, tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo vệ môi trường: Ưu tiên bố trí và sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư cho hạ tầng môi trường thiết yếu. Hoàn thiện các công cụ tài chính xanh như quỹ bảo vệ môi trường, tín dụng xanh, trái phiếu xanh; thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước; tăng cường hợp tác công tư và tranh thủ nguồn lực quốc tế. Chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực môi trường và biến đổi khí hậu.
Thứ ba, đẩy mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong bảo vệ môi trường: Tăng cường ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản lý chất thải, kiểm soát nguồn thải, quan trắc và cảnh báo môi trường; xây dựng hệ thống dữ liệu môi trường thống nhất, liên thông. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tiên tiến về xử lý chất thải, năng lượng sạch và giảm phát thải các-bon; phát triển thị trường công nghiệp môi trường và từng bước xây dựng, vận hành sàn giao dịch các-bon quốc gia, hướng tới mô hình phát triển xanh, thông minh.
![]() |
| Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong bảo vệ môi trường. |
Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần hoàn thành đến hết năm 2026
Trong giai đoạn 2025–2026, Quốc hội yêu cầu tập trung triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nâng cao năng lực quản lý môi trường và tạo nền tảng cho phát triển bền vững trong trung và dài hạn.
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường: Rà soát toàn diện việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, đề xuất sửa đổi, bổ sung và trình Quốc hội xem xét vào đầu nhiệm kỳ khóa XVI. Ngay trong năm 2025, sửa đổi một số quy định cấp thiết để tháo gỡ điểm nghẽn, phù hợp mô hình chính quyền địa phương hai cấp và điều chỉnh lộ trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt. Năm 2026, tiếp tục hoàn thiện các quy định về thuế, phí môi trường và cơ chế đo đạc, báo cáo, kiểm kê khí nhà kính, phù hợp với NDC giai đoạn 2026–2035.
Thứ hai, rà soát chiến lược, quy hoạch gắn với phát triển bền vững: Cập nhật, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm lồng ghép đầy đủ các rủi ro về khí hậu, thiên tai và xâm nhập mặn. Quá trình này cần tập trung vào các khu vực nhạy cảm như đô thị lớn, đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven biển, đồng thời bảo đảm nguyên tắc không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
![]() |
| Xây dựng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường. Ảnh minh họa. |
Thứ ba, kiểm soát ô nhiễm môi trường trọng điểm: Ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý chất lượng không khí giai đoạn 2025–2030; áp dụng các biện pháp quyết liệt nhằm cải thiện ô nhiễm không khí tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, hoàn thành đánh giá khả năng chịu tải môi trường nước mặt và tập trung cải thiện chất lượng tại các đoạn sông ô nhiễm nghiêm trọng.
Thứ tư, đẩy mạnh hạ tầng dữ liệu và chuyển đổi số môi trường: Hoàn thành và đưa vào vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia theo hướng tích hợp, liên thông và chia sẻ dữ liệu thời gian thực. Trên cơ sở đó, xây dựng bản đồ chất lượng môi trường gắn với hệ thống thông tin địa lý và từng bước triển khai áp dụng tại các đô thị lớn.
Thứ năm, hình thành và vận hành thị trường các-bon: Từng bước thiết lập và vận hành sàn giao dịch các-bon trong nước; hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về trao đổi tín chỉ các-bon với quốc tế. Việc triển khai cần gắn với quy định rõ tỷ lệ tín chỉ và kết quả giảm phát thải được giữ lại, bảo đảm hài hòa giữa hội nhập quốc tế và lợi ích, mục tiêu giảm phát thải quốc gia.
![]() |
| Từng bước thiết lập và vận hành sàn thị trường các-bon trong nước. Ảnh minh họa. |
Nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2030 và các năm tiếp theo
Phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu: Tăng cường năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm về môi trường và biến đổi khí hậu; siết chặt yêu cầu môi trường ngay từ khâu thẩm định, cấp phép dự án. Kiểm soát nghiêm các nguồn gây ô nhiễm, ngăn chặn công nghệ lạc hậu, di dời cơ sở ô nhiễm khỏi khu dân cư. Thực hiện đầy đủ cam kết giảm phát thải theo NDC; hoàn thiện hệ thống kiểm kê, giám sát khí nhà kính theo hướng số hóa.
Khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường trọng điểm: Ưu tiên xử lý đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, giải quyết dứt điểm các cơ sở, làng nghề gây ô nhiễm. Tăng cường quản lý chất lượng nước các lưu vực sông liên tỉnh, cải thiện các đoạn sông ô nhiễm nặng; đẩy mạnh thu gom, xử lý nước thải đô thị. Kiểm soát khí thải giao thông, thúc đẩy chuyển đổi xanh, từng bước cải thiện chất lượng không khí tại các đô thị lớn.
Nâng cao hiệu quả quản lý chất thải: Thực hiện phân loại rác tại nguồn, ưu tiên tái chế, thu hồi năng lượng, giảm chôn lấp và ô nhiễm nhựa. Quản lý chặt chất thải công nghiệp, nguy hại và chất thải đặc thù; đẩy mạnh tái chế pin, ắc quy và thiết bị năng lượng tái tạo. Triển khai hiệu quả trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), phát triển kinh tế tuần hoàn và nông nghiệp xanh, hữu cơ.
Tăng cường ứng phó với biến đổi khí hậu: Nghiên cứu xây dựng Luật Biến đổi khí hậu; rà soát, điều chỉnh tiêu chuẩn, quy chuẩn hạ tầng theo hướng thích ứng và tích hợp đa mục tiêu. Thực hiện phân bổ hạn ngạch phát thải và vận hành hiệu quả thị trường các-bon trong nước, gắn với cơ chế trao đổi tín chỉ phù hợp.
Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về môi trường: Đẩy mạnh kiểm toán, thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm; tăng cường tính răn đe của chế tài. Giải quyết kịp thời khiếu kiện môi trường, chú trọng khởi kiện và bồi thường thiệt hại khi xảy ra sự cố.
Đổi mới tuyên truyền, giáo dục về môi trường và khí hậu: Phát động phong trào toàn dân bảo vệ môi trường; công khai thông tin để người dân giám sát. Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, lồng ghép giáo dục môi trường trong hệ thống giáo dục; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội và nhân rộng các mô hình hiệu quả.
Tăng cường nguồn lực và hiệu quả quản lý nhà nước: Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương; kiện toàn bộ máy quản lý môi trường gắn với nâng cao năng lực cán bộ. Đẩy mạnh tín dụng xanh, ưu tiên đầu tư cho giảm phát thải, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo và xử lý ô nhiễm.
Về tổ chức thực hiện
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ Nghị quyết; xây dựng và ban hành chương trình, kế hoạch triển khai với phân công rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, lộ trình, tiến độ và bảo đảm nguồn lực thực hiện. Kết quả thực hiện Nghị quyết được tổng hợp, báo cáo Quốc hội hằng năm cùng với báo cáo công tác bảo vệ môi trường. Trước mắt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đột phá, cấp bách, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu trọng tâm đến hết năm 2026.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, theo chức năng, nhiệm vụ được giao, chủ động tổ chức thực hiện, tăng cường kiểm tra, giám sát và báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết theo quy định của pháp luật, bảo đảm thống nhất, hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường.
![]() |
| Nghị quyết mở rộng dư địa chính sách cho chuyển đổi xanh, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp và đổi mới công nghệ trong lĩnh vực môi trường. Ảnh minh họa |
Nền tảng cho giai đoạn phát triển xanh và bền vững
Nghị quyết số 247/2025/QH15 của Quốc hội thể hiện rõ quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Nghị quyết được ban hành kịp thời, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh áp lực môi trường và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, đồng thời khẳng định nhất quán quan điểm không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế ngắn hạn.
Điểm nổi bật của Nghị quyết là cách tiếp cận toàn diện và thực chất, gắn hoàn thiện thể chế với tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ. Việc xác định rõ nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm theo từng giai đoạn, cùng với phân công trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan, tạo cơ sở quan trọng để nâng cao kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước về môi trường và khắc phục những hạn chế kéo dài trong thực tiễn thi hành pháp luật.
Nghị quyết cũng mở ra không gian chính sách thuận lợi cho quá trình chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp và ứng dụng khoa học – công nghệ trong bảo vệ môi trường. Đây là tiền đề để huy động và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội, thúc đẩy đầu tư cho hạ tầng môi trường, nâng cao chất lượng môi trường sống và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu.
Với tầm nhìn dài hạn đến năm 2030 và các năm tiếp theo, Nghị quyết số 247/2025/QH15 được kỳ vọng sẽ góp phần quan trọng hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong thực hiện các cam kết môi trường và khí hậu toàn cầu, hướng tới một nền kinh tế phát triển hài hòa giữa tăng trưởng, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Mối quan hệ giữa nông nghiệp và môi trường là một chủ đề phức tạp và đa chiều. Trong nhiều thập kỷ qua, mô hình ... |
UBND tỉnh Lâm Đồng vừa ban hành Quyết định phê duyệt Kế hoạch quản lý và bảo vệ môi trường Khu dự trữ sinh quyển ... |
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 394/NQ-CP ngày 03/12/2025 về phát động phong trào toàn dân tham gia bảo vệ môi trường; giảm thiểu ... |