![]() |
Theo bà Hà Thị Thảo sản xuất chè Tán Ma phải đảm bảo nhiều yếu tố thì chè mới có hương vị đăng trưng, thơm ngon. |
Đặc sản chè cổ Tán Ma
Trong cuộc sống hàng ngày, cây chè Tán Ma đã gắn liền với người đồng bào dân tộc Thái ở huyện Quan Sơn (Thanh Hóa). Trước đây, chè Tán Ma chỉ phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, nhưng nhiều năm trở lại đây, chè Tán Ma đã trở thành những món quà biếu không thể thiếu mỗi dịp bạn bè tới thăm nhà đồng dân tộc Thái. Theo một số người đồng bào dân tộc Thái cho hay, khi khách đến chơi nhà thì họ sẽ mang chè Tán Ma ra tiếp khách. Ấm chè chính là tấm lòng hiếu khách, sự chân quý của gia chủ dành cho các vị khách tới chơi nhà.
Ở các huyện miền núi Thanh Hóa, hầu như đều có chè Tán Ma. Tuy nhiên, mỗi nơi chè có vị đặc trưng khác nhau. Chè Tán Ma ở bản Phụn, xã Trung Xuân mang hương vị đặc trưng mà chè nơi khác không thể có. Các bậc cao niên cho rằng, có được hương vị đặc trưng đó có thể là do khí hậu và thổ nhưỡng của địa phương. Bên cạnh đó, kỹ thuật vò chè, ủ chè cũng là một bí kíp từ lâu đời.
Chè Tán Ma được chế biến hoàn toàn bằng phương pháp thủ công, truyền thống qua các giai đoạn như: hái chè vào sáng sớm tinh mơ của những ngày trời nắng đẹp, vò chè đã héo bằng tay trần, chè được phơi trong bóng râm, sau đó phơi một nắng tự nhiên là được. Sau khi chè được phơi thì sẽ cho vào chum, vại đẻ bảo quản và sử dụng dần. Nước chè có mầu đỏ vàng, vị ngọt ở đầu lưỡi, không chát như các loại chè khô truyền thống, hương thơm thảo dược tự nhiên. Uống chè tán ma vừa không bị cồn ruột, mất ngủ, lại tốt cho sức khỏe.
Theo bà Hà Thị Thảo (56 tuổi) kể từ khi về làm dâu bản Phụn đến nay, bà được mẹ chồng dạy cách hái, vò và phơi chè sao cho đạt độ thơm ngon nhất. Những cây chè trong vườn đồi của gia đình đã có từ trước khi mẹ chồng bà về làm dâu. Trước đây, chè chỉ sử dụng hàng ngày cho gia đình và để dành biếu bạn bè, người thân. Những năm trở lại đây, nhận thấy chè tán Ma có hương vị đặc biệt và sử dụng tốt cho sức khỏe nên nhiều người đến hỏi mua để biếu và sử dụng.
Vừa trò chuyện, bà Thảo vừa lấy nong tre bắt đầu quy trình vò chè thủ công, đôi bàn tay của bà thoăn thoát, dẻo dai và đầy khéo léo nhào nặn những ngọn chè tươi trong chốc lát đã đạt độ nhuyễn theo kinh nghiệm của bà. Chè sau khi vò sẽ được ủ bằng mo cau hơn một giờ đồng hồ để lên men, rồi mới đem đi phơi trong một nắng.
Đến thăm vườn chè Tán Ma của gia đình bà Phạm Thị Can (65 tuổi) được bà cho hay: Trong vườn chè của gia đình có nhiều cây đã trăm năm tuổi. Lúc cha mẹ chồng còn sống thường dặn dò con cháu phải giữ những gốc chè cổ này. Vì thế, công việc hái chè và sơ chế đã trở thành công việc thuòng nhật của vợ chồng tôi bao nhiêu năm nay.
![]() |
bà Phạm Thị Can cho hay mỗi năm thu nhập từ 30-40 triệu đồng từ sản phẩm chè Tán Ma giúp ổn định cuộc sống cho gia đình. |
Cần phục tráng chè cổ Tán Ma
Chè Tán Ma trước đây chỉ trồng rải rác ở bản Phụn, năm 2021 có định hướng xây dựng sản phẩm OCOP nên chính quyền đã vận động nhân dân mở rộng diện tích trồng tập trung lên 4,5ha. Toàn bộ số chè khô trong bản được sản xuất ra đến đâu thì tiêu thụ hết đến đấy, lượng cung không đủ lượng cầu.
Mỗi gốc chè gắn với sinh hoạt hàng ngày cũng như hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình của nhiều bà con nơi đây. Đối với những gia đình có người già, thu nhập mỗi năm từ 30-40 triệu đồng từ diện tích chè Tán Ma là không hề nhỏ. Như trường hợp của gia đình bà Can, ngoài sản xuất chè để tăng thu nhập kinh tế cho gai đình thì đây còn là niềm đam mê với nghề truyền thống của cha ông. Mỗi cánh chè được làm ra, bà Can gửi vào đó kinh nghiệm, tâm tư và hồn cốt của người dân tộc Thái.
Còn cụ Hà Thị Kén, năm nay đã 101 tuổi, khi nhắc đến làm chè Tán Ma thì bà nhớ rõ từng công đoạn. Với cây chè Tán Ma dường như bà đã dành cả cuộc đời mình vào đó để gắn bó. Ngày nhỏ thì theo mẹ đeo gùi lên đồi hái chè, tới khi con cái dựng vợ gả chồng, việc đầu tiên là dạy con dâu không phải là lễ nghi trong gia đình mà là cách làm chè Tán Ma.
![]() | ||
Người dân bản Phụn đang tập trung mở rộng trồng chè Tán Ma.
|
Trao đổi với ông Hà Hoàng Thanh Tâm, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Quan Sơn cho biết: Để phát triển chè Tán Ma ở bản Phụn, xã Trung Xuân thành sản phẩm OCOP cần mở rộng diện tích vùng trồng nguyên liệu, đảm bảo sản xuất quy mô lớn; áp dụng khoa học kĩ thuật đối với diện tích đang cho thu hoạch để nâng cao năng suất; cải tiến mẫu mã bao bì sản phẩm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng; tổ chức lại sản xuất từ tổ sản xuất như hiện nay cần thành lập hợp tác xã để liên kết sản xuất và tiêu thụ, nâng quy mô sản xuất.
Định hướng xây dựng chè Tán Ma thành sản phẩm OCOP sẽ góp phần duy trì và phát triển được các đồi chè cổ của người Thái. Nâng cao được năng lực sản xuất sản phẩm hàng hóa và liên kết theo chuỗi giá trị bền vững mang lại hiệu quả về kinh tế cho người dân. Hơn nữa, trong đề án xây dựng và phát triển chè Tán Ma, chính quyền địa phương cũng rất quan tâm, chú trọng phục tráng lại giống chè quý hiếm của địa phương.
Nhìn những đồi chè Tán Ma xanh mướt một màu ở bản Phụn, có nhiều gốc có tuổi đời còn cao hơn các bậc cao niên trong bản. Để giữ gìn nghề làm chè Tán Ma ở bản, các thế con cháu vẫn từng ngày học hỏi, nối truyền nét đẹp văn hóa truyền thống của cha ông.