![]() |
| Nhiều mô hình ứng dụng khoa học công nghệ, đưa thiết bị tiên tiến vào canh tác đã được triển khai có hiệu quả. |
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, trong đó nông nghiệp vẫn giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế, an ninh lương thực và sinh kế của hàng chục triệu người dân nông thôn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, sản xuất nông nghiệp đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn: sự bùng nổ của công nghệ thông tin, yêu cầu ngày càng khắt khe về chất lượng nông sản trong quá trình hội nhập quốc tế, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp do đô thị hóa, tác động ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu; trong khi đó, dân số tiếp tục gia tăng, kéo theo nhu cầu lương thực, thực phẩm không ngừng tăng cao.
Trước những áp lực đó, phát triển nông nghiệp theo phương thức truyền thống đã dần không còn phù hợp. Thay vào đó, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chính là xu hướng tất yếu đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn mới.
![]() |
| Nông nghiệp công nghệ cao - xu thế tất yếu. |
Nông nghiệp công nghệ cao - động lực nâng cao năng suất và chất lượng
Nông nghiệp công nghệ cao là nền nông nghiệp ứng dụng hợp lý các công nghệ mới, tiên tiến vào toàn bộ quá trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả, tạo đột phá về năng suất và chất lượng nông sản, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đồng thời bảo đảm phát triển nông nghiệp bền vững.
Trong đó, đổi mới và ứng dụng khoa học – công nghệ được xác định là giải pháp then chốt, mang tính quyết định. Các công nghệ như công nghệ sinh học, công nghệ nhà kính, công nghệ tưới nhỏ giọt, công nghệ cảm biến, tự động hóa, Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), … đã và đang được triển khai ngày càng rộng rãi, giúp sản xuất nông nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, hạ giá thành, nâng cao chất lượng nông sản và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
![]() |
| Ứng dụng công nghệ AI trong nâng cao năng suất nông nghiệp. |
Không chỉ vậy, nông nghiệp công nghệ cao còn giúp nông dân chủ động hơn trong sản xuất, khắc phục tính mùa vụ, giảm sự phụ thuộc vào thời tiết và khí hậu, từ đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường về chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.
Theo các báo cáo chuyên ngành, tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, trên 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch đã giảm đáng kể (lúa gạo còn dưới 10%). Mức độ cơ giới hóa trong nông nghiệp ngày càng cao: khâu làm đất đối với cây hàng năm đạt khoảng 94%; khâu thu hoạch lúa đạt 50%, riêng các tỉnh đồng bằng đạt tới 90%.
Những con số này cho thấy vai trò ngày càng rõ nét của khoa học – công nghệ trong việc tạo ra chuyển biến mang tính đột phá, góp phần thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp và nâng cao đời sống người dân nông thôn.
Định hướng nhất quán từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Phát triển nông nghiệp dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là định hướng xuyên suốt trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngành nông nghiệp đang từng bước chuyển từ tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”, trong đó khoa học – công nghệ được xác định là nền tảng để tái cơ cấu ngành theo hướng hiện đại, đa giá trị và bền vững.
Nhận thức rõ vai trò của công nghệ trong phát triển nông nghiệp, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tiêu biểu là Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, nhấn mạnh định hướng: hiện đại hóa, thương mại hóa nông nghiệp; chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, sản xuất lớn, dựa vào khoa học – công nghệ, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao; chuyển từ sản xuất lương thực là chủ yếu sang nền nông nghiệp đa dạng, phù hợp lợi thế từng vùng.
Trước đó, nhiều chính sách nền tảng đã được ban hành như Quyết định số 176/QĐ-TTg (2010) phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020; Quyết định số 1895/QĐ-TTg (2012) phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình Quốc gia phát triển công nghệ cao. Những chính sách này khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước trong việc coi khoa học – công nghệ là trụ cột của phát triển nông nghiệp hiện đại.
Thực tiễn cho thấy hiệu quả rõ nét từ ứng dụng công nghệ cao
Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ trong những năm qua đã góp phần quan trọng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương, gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời nâng cao khả năng thích ứng trước những tác động ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư vào các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại xuyên suốt từ khâu giống, canh tác đến chế biến, bảo quản, qua đó tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
Trong lĩnh vực trồng trọt, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng, kết hợp áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến và quản lý dịch hại hiệu quả đã giúp nâng cao rõ rệt năng suất và chất lượng nông sản. Tỷ trọng gạo chất lượng cao hiện chiếm trên 80% tổng lượng gạo xuất khẩu; giá gạo xuất khẩu bình quân tăng từ 502 USD/tấn năm 2018 lên 510 USD/tấn năm 2019. Đặc biệt, giống gạo ST25 được vinh danh là “Gạo ngon nhất thế giới năm 2019” không chỉ khẳng định chất lượng nông sản Việt Nam mà còn cho thấy vai trò then chốt của khoa học – công nghệ trong nâng tầm giá trị thương hiệu quốc gia.
![]() |
| Gạo ST25 - “Gạo ngon nhất thế giới năm 2019”. Ảnh minh họa. |
Song song với đó, việc mở rộng áp dụng các tiêu chuẩn VietGAP, cùng các mô hình cánh đồng mẫu lớn, liên kết sản xuất – tiêu thụ theo chuỗi giá trị đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí trung gian và tăng cường kiểm soát an toàn thực phẩm. Ngành lâm nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, từng bước làm chủ nhiều công nghệ chế biến hiện đại, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về chế biến và xuất khẩu lâm sản.
Ở lĩnh vực chăn nuôi và thủy sản, các mô hình chăn nuôi tập trung, khép kín, ứng dụng công nghệ cao ngày càng phổ biến; nhiều mô hình chăn nuôi hữu cơ, an toàn sinh học được hình thành và nhân rộng. Công nghệ chế biến và bảo quản thủy sản không ngừng được đầu tư, từng bước đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế.
![]() |
| Ứng dụng phần mềm quản lý trang trại trong chăn nuôi. Ảnh minh họa. |
Nhờ việc ứng dụng khoa học – công nghệ một cách đồng bộ từ khâu giống, canh tác, chăn nuôi đến chế biến và bảo quản sau thu hoạch, giá trị nông sản Việt Nam không ngừng được nâng cao. Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 41,3 tỷ USD, thặng dư thương mại toàn ngành đạt 10,4 tỷ USD, cho thấy đóng góp ngày càng rõ nét của khoa học – công nghệ đối với tăng trưởng và hội nhập của nông nghiệp Việt Nam.
Triển khai Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, được ban hành từ năm 2010, Việt Nam từng bước hình thành nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao. Trên thực tế, nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã xuất hiện với hình thức đa dạng, từ hộ gia đình, hợp tác xã đến doanh nghiệp, từng bước hình thành các khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, góp phần gia tăng giá trị nông sản và thúc đẩy phát triển nông thôn.
Đến năm 2022, cả nước có 34 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được quy hoạch tại 19 tỉnh, thành phố; trong đó có 6 khu quy mô lớn với diện tích trên 400 ha tại Hà Nội và các tỉnh Thanh Hóa, Phú Yên, Hậu Giang, Bình Dương. Bên cạnh đó, nhiều địa phương tiếp tục thu hút doanh nghiệp đầu tư hạ tầng và công nghệ cho nông nghiệp công nghệ cao.
Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 do Tổng cục Thống kê công bố, tính đến cuối năm 2019, cả nước có 7.471 doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 94,25% so với năm 2015. Tổng doanh thu thuần của các doanh nghiệp này đạt 168,5 nghìn tỷ đồng, phản ánh nỗ lực đáng kể của Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp trong thúc đẩy nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Cùng với đó, cả nước hiện có 12 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được địa phương công nhận và 51 vùng được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận. Các tiến bộ khoa học – công nghệ đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp và 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi; tổn thất sau thu hoạch giảm đáng kể, trong đó tổn thất lúa gạo đã giảm xuống dưới 10%.
Đối với khu vực kinh tế tập thể, đến cuối năm 2020, cả nước có khoảng 17.000 hợp tác xã nông nghiệp, song chỉ khoảng 10% trong số đó ứng dụng công nghệ cao. Dù tỷ lệ còn khiêm tốn, thực tiễn cho thấy việc áp dụng công nghệ cao đã giúp các hợp tác xã giảm phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và tạo ra giá trị kinh tế vượt trội.
| Thực tiễn phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam cho thấy, bên cạnh vai trò dẫn dắt của Nhà nước và doanh nghiệp lớn, những sáng kiến khoa học xuất phát từ thực tiễn sản xuất nông nghiệp và gắn bó trực tiếp với người nông dân đang ngày càng đóng vai trò quan trọng. Trường hợp của Thạc sĩ Phạm Thị Lý, Chủ tịch Hội đồng sáng lập, Giám đốc Trung tâm Doanh nghiệp hội nhập và Phát triển (IDE), là một ví dụ tiêu biểu cho cách khoa học – công nghệ được ứng dụng hiệu quả để giải quyết các “điểm nghẽn” của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số.
Xuất thân từ vùng quê gắn bó mật thiết với nông nghiệp, thạc sĩ Phạm Thị Lý sớm thấu hiểu những khó khăn của người nông dân, đặc biệt là bài toán tiêu thụ sản phẩm, bảo vệ thương hiệu và minh bạch hóa chuỗi sản xuất. Từ thực tiễn đó, bà kiên trì theo đuổi con đường nghiên cứu và ứng dụng công nghệ số nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt. Khởi đầu năm 2013 với nguồn lực hạn chế, Trung tâm Doanh nghiệp hội nhập và Phát triển (IDE) đã tập trung nghiên cứu nhu cầu của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như nông dân trước sức ép hội nhập, qua đó hình thành các giải pháp công nghệ mang tính ứng dụng cao. Dấu ấn nổi bật trong hành trình này là công nghệ xác thực và truy xuất nguồn gốc CheckVN, được cấp bằng độc quyền sáng chế giai đoạn 2014–2015. Không chỉ dừng lại ở một công cụ kỹ thuật chống hàng giả, CheckVN được phát triển như một nền tảng chuyển đổi số phục vụ nông nghiệp, cho phép kết nối nông dân, doanh nghiệp, cơ quan quản lý và người tiêu dùng trong cùng một hệ thống minh bạch thông tin. Thông qua truy xuất nguồn gốc, xác thực sản phẩm và chuẩn hóa dữ liệu theo các tiêu chuẩn TCVN và GS1, công nghệ này góp phần giải quyết một trong những vấn đề cốt lõi của nông nghiệp Việt Nam: tình trạng hàng giả, hàng nhái và sự thiếu niềm tin trong chuỗi sản xuất – tiêu thụ. Điểm nổi bật của CheckVN nằm ở khả năng kết nối đa chủ thể trong cùng một hệ thống dữ liệu thống nhất, bao gồm nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ quan quản lý và thị trường. Nhờ đó, người nông dân không chỉ bảo vệ được thương hiệu sản phẩm trước tình trạng hàng giả, hàng nhái, mà còn từng bước nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị, đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe về truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm và trách nhiệm xã hội.
Thực tiễn triển khai cho thấy CheckVN đã được ứng dụng tại nhiều địa phương, hỗ trợ hàng nghìn doanh nghiệp và hàng chục nghìn sản phẩm nông sản, thực phẩm trong công tác truy xuất và bảo vệ thương hiệu. Đặc biệt, từ năm 2019, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã lựa chọn CheckVN để thí điểm và vận hành Hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc gia, qua đó khẳng định tính thực tiễn, khả năng mở rộng và mức độ phù hợp của giải pháp công nghệ số “thuần Việt” trong quản lý nông nghiệp. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn TCVN và hệ thống GS1 giúp CheckVN tạo nền tảng để nông sản Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Không chỉ nâng cao chất lượng quản lý, công nghệ này còn góp phần xây dựng niềm tin thị trường – yếu tố then chốt đối với sự phát triển bền vững của nông nghiệp trong thời kỳ chuyển đổi số. |
Không đầu hàng số phận, anh Bùi Văn Phương kiên trì áp dụng khoa học, công nghệ cao vào sản xuất, đưa hợp tác xã ... |
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên đất và yêu cầu ngày càng cao của thị trường nông sản, việc đổi ... |
Đại hội đại biểu Hội Nông dân TPHCM lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 với chủ đề “Đoàn kết - đổi mới - ... |