Ứng dụng công nghệ số giúp phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam. |
Các công nghệ số tiên tiến như Internet vạn vật (IoT), Trí tuệ nhân tạo (AI), Chuỗi khối (Blockchain), và Dữ liệu lớn (Big Data) đang tạo ra những thay đổi căn bản trong sản xuất toàn cầu, và ngành nông nghiệp Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này. Việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động phát triển của ngành theo hướng nông nghiệp số, nông thôn số, nông dân số đã và đang góp phần thúc đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tối ưu hóa quy trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải.
Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã xác định rõ, nông nghiệp là một trong những lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số trước; trong đó, chú trọng tới việc triển khai các sáng kiến nhằm liên kết giữa các ngành, lĩnh vực để cung cấp một trải nghiệm mới, hoàn toàn khác, mang lại giá trị cho người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Ông Nguyễn Quốc Toản, Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho biết thời gian qua, việc số hóa và ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số để nâng cao giá trị kinh tế số trong lĩnh vực nông nghiệp đã ghi nhận nhiều kết quả. Cụ thể, trong sản xuất chăn nuôi và thú y, nhiều cơ sở, trang trại chăn nuôi đã áp dụng hệ thống cảm biến điều khiển tiểu khí hậu chuồng nuôi, cho ăn và cấp nước uống tự động; quản lý, theo dõi chăn nuôi và xuất xứ động vật nuôi bằng phần mềm. Công nghệ IoT và Blockchain đã được ứng dụng tại các trang trại chăn nuôi quy mô vừa và lớn, mang lại hiệu quả cao trong việc quản lý và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Ngành nông nghiệp Việt Nam đang chứng kiến sự bùng nổ của các công nghệ số, đặc biệt là trong lĩnh vực chăn nuôi bò sữa với những ứng dụng nổi bật tại các trang trại hiện đại của Tập đoàn TH TrueMilk và Công ty Vinamilk. Trong lĩnh vực kinh tế hợp tác, hệ thống quản lý dữ liệu hợp tác xã nông nghiệp đã được xây dựng và vận hành trên phần mềm online quanlyhtxnongnghiep.gov.vn, đồng thời hợp tác với một số công ty công nghệ số để triển khai các phần mềm ứng dụng trong sản xuất và kinh doanh của các hợp tác xã nông nghiệp như phần mềm quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc, phần mềm kế toán WACA, và phần mềm Nhật ký điện tử. Hơn 600 hợp tác xã nông nghiệp đã tham gia sàn giao dịch sanocop.vn để kết nối tiêu thụ và xuất khẩu đến các thị trường Nhật Bản, Anh, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc với các mặt hàng như sầu riêng, khoai lang, bưởi, xoài, chôm chôm.
Kinh tế số nông nghiệp cũng đã tạo ra một lực lượng “nông dân 4.0”. Nhiều nông dân đã thành thạo sử dụng các chương trình và phần mềm quản trị vườn trồng, nông nghiệp chính xác để tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên như nước và phân bón, tạo ra nhiều cơ hội tăng năng suất lao động và giảm phụ thuộc vào điều kiện môi trường, thời tiết. Theo thống kê từ các địa phương, đến tháng 12/2023, đã có hơn hai triệu hộ sản xuất nông nghiệp tại các tỉnh, thành phố được đào tạo kỹ năng số, gần 50.000 sản phẩm nông sản được đưa lên sàn thương mại điện tử và hàng nghìn giao dịch điện tử đã được thực hiện. Khảo sát của Hiệp hội Crop Life châu Á cho thấy gần 50% số nông dân trồng lúa và rau quả ở Việt Nam muốn áp dụng số hóa trong nông nghiệp, tỷ lệ cao nhất trong khu vực ASEAN.
Đánh giá hiệu quả mà chuyển đổi số mang lại cho ngành thủy sản, ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam - cho rằng chuyển đổi số có thể giúp doanh nghiệp thủy sản giảm từ 7-25% chi phí các loại. Công nghệ tự động hóa đã được áp dụng rộng rãi trong khâu chế biến thủy sản từ phân loại, hấp, đóng gói đến dây chuyền sản xuất, giúp giảm chi phí sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, các doanh nghiệp đầu tư bài bản cho chuyển đổi số trong quản trị có thể đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu của các cuộc thanh tra kiểm tra, minh bạch thông tin và đảm bảo niềm tin của đối tác nhập khẩu.
Ngành nông nghiệp và ngành lâm sản của Việt Nam đều đang phải đối mặt với những thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi số. Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã chỉ ra rằng, mặc dù tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đạt 11,9% và tăng trưởng hàng năm 3,5% cao hơn mức trung bình của thế giới và khu vực, tỷ trọng số hóa trong nông nghiệp chỉ mới đạt 2,1%. Điều này thể hiện rõ rằng còn nhiều dư địa và cơ hội để phát triển, nhưng cũng đặt ra mối lo về mục tiêu của Chính phủ trong Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số, yêu cầu ngành nông nghiệp đạt tỷ trọng kinh tế số là 10% vào năm 2025. Thời gian tới, cần đẩy mạnh đầu tư để thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực này.
Ngành lâm sản, trong đó có sự đóng góp quan trọng từ Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, đang cũng đứng trước những thử thách lớn của chuyển đổi số. Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội, Ngô Sỹ Hoài, đã nêu rõ những khó khăn và đề xuất cần thiết về việc tăng cường năng lực chuyển đổi số và áp dụng công nghệ số trong sản xuất xanh và thương mại xanh. Đây là những bước cần thiết để đáp ứng yêu cầu ngày càng nghiêm ngặt từ thị trường thế giới đối với quản trị rừng và thương mại sản phẩm gỗ. Chuyển đổi số không chỉ là một xu hướng mà còn là chìa khóa để giúp ngành lâm sản duy trì và phát triển bền vững trong bối cảnh thị trường toàn cầu ngày càng đòi hỏi cao về tính minh bạch và trách nhiệm môi trường.
Mặt khác, việc đầu tư vào nền tảng thương mại điện tử là cực kỳ cần thiết đối với ngành gỗ, vì sản phẩm gỗ thường có khối lượng lớn và mẫu mã thay đổi nhanh. Sử dụng các nền tảng trực tuyến sẽ giúp các doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường, đồng thời giảm thiểu rủi ro trong bối cảnh có nhiều bất trắc do xung đột địa chính trị hiện nay.
Đối với chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp, Đại diện Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) - ông Dương Trọng Hải nhấn mạnh cần thiết phải có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nông nghiệp số đứng đầu chuỗi giá trị nông sản. Điều này sẽ giúp họ dẫn dắt quá trình chuyển đổi số cho các nông hộ và hợp tác xã số, từ đó tạo nên một xã hội nông nghiệp số. Quá trình này không chỉ thu hút các doanh nghiệp công nghệ mà còn cần tập trung ngân sách đầu tư không bị phân mảnh, để phát triển các nội dung chuyên môn số, nghiệp vụ số, và mô hình kinh doanh mới trong ngành.