Hiện tại, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị có diện tích cây cà phê gần 5.000 ha, trong đó có gần 4.500 ha đã cho thu hoạch, năng suất bình quân 9 - 10 tấn quả tươi/ha, sản lượng đạt trên 40.000 tấn quả tươi đã đem lại giá trị kinh tế hàng năm trên 300 tỷ đồng.
Nguồn thu nhập từ cây cà phê không chỉ xóa đói, giảm nghèo mà giúp nhiều hộ gia đình trở thành triệu phú. Hàng năm sau mùa thu hoạch có một lượng lớn phế phụ phẩm là vỏ cà phê khoảng 7.000- 8.000 tấn vứt bỏ vung vãi ven lề đường để cho nước cuốn trôi, hoặc đốt bỏ gây khói bụi.
Từ trước đến nay, đa số nông dân trồng cà phê ở xã Hướng Phùng và huyện Hướng Hóa nói chung đều sử dụng phân bón hóa học, thiếu bón phân hữu cơ vi sinh làm cho đất trồng cà phê ngày càng bị chai cứng, thoái hóa, hệ vi sinh vật đất bị suy thoái hoặc sử dụng phân hữu cơ vi sinh với giá cao.
Để góp phần giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do chế biến cà phê gây ra và tạo nguồn phân hữu cơ lâu dài cho sản xuất cây cà phê, được sự hỗ trợ của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Trị, Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện Hướng Hóa triển khai dự án: “Ứng dụng chế phẩm sinh học trong sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ vỏ cà phê tại xã Hướng Phùng”.
Người dân xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị đang tiến hành sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ vỏ cà phê |
Sau thời gian triển khai thực hiện dự án đã xây dựng quy trình công nghệ sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ vỏ cà phê và phế thải nông nghiệp đáp ứng tiêu chí ngắn gọn, đầy đủ, dễ áp dụng và đã sản xuất thử nghiệm sản phẩm phân hữu cơ vi sinh từ vỏ cà phê và phế thải nông nghiệp.
Đồng thời, xây dựng 1 mô hình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ vỏ cà phê tại HTX Nông nghiệp Công Bằng Sa Mù (xã Hướng Phùng) quy mô nhỏ (200 tấn/năm) cấp xã phục vụ tại chỗ cho nông dân để chuyển giao quy trình sản xuất. Mặt khác, tiến hành tổ chức 2 lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân Hướng Phùng với 100 học viên tham gia.
Vỏ cà phê đưa vào xử lý để làm nguồn phân bón được bổ sung dinh dưỡng cho vi sinh vật hoạt động, sau 10 ngày phải đảo trộn để cung cấp lượng ôxy cho vi sinh vật hoạt động và kiểm tra độ ẩm để bổ sung thêm nước. So với phân vô cơ, phân hữu cơ vi sinh có ưu điểm đó là giúp hệ sinh vật trong đất tăng trưởng phát triển mạnh, cung cấp vi lượng tốt cho cây trồng như kẽm, đồng, ...; cung cấp nguồn phân tại chỗ; tổ hợp vi sinh vật trong phân này hạn chế một số loại bệnh trên cây cà phê.
Trong quá trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh, nguồn dinh dưỡng bổ sung cho sự sinh trưởng, phát triển của các chủng vi sinh vật trong đống ủ vỏ cà phê là N, P, K và C. Sản phẩm phân hữu cơ vi sinh từ vỏ cà phê sau thời gian ủ 80- 90 ngày có màu nâu sẫm, mịn và tơi xốp. Việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật sử dụng chế phẩm sinh học phân giải vỏ cà phê làm phân hữu cơ vi sinh phục vụ sản xuất nông nghiệp tại chỗ, ở quy mô nhỏ tại xã Hướng Phùng là rất phù hợp, dễ áp dụng, tiết kiệm chi phí phân bón cho người dân.
Ông Lê Mậu Bình, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tỉnh cho biết: Ứng dụng tiến bộ KH&CN để chế biến vỏ cà phê thành phân lân vi sinh đưa lại nhiều hiệu quả kinh tế, môi trường sinh thái và môi trường sản xuất. Đồng thời qua đó làm thay đổi nhận thức của nông dân trong sản xuất nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường và sản xuất bền vững. Dự án thành công sẽ được nhân rộng ra trên địa bàn các xã khác để đảm bảo xử lý sạch môi trường do vỏ cà phê gây ra.