Các địa phương ĐBSCL thực hiện hơn 450 nghiên cứu, nhiều đề tài ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp giúp tăng năng suất và giá trị sản phẩm. |
Theo Vụ Ứng dụng Công nghệ và Tiến bộ Kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ, giai đoạn 2022-2024, các địa phương trong vùng ĐBSCL đã triển khai 458 đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, trong đó có 157 nhiệm vụ thuộc lĩnh vực khoa học nông nghiệp, chiếm 34,3%. Các nhiệm vụ này, sau khi kết thúc, phần lớn tạo ra sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, có khả năng ứng dụng và nhân rộng. Tại tỉnh Hậu Giang, các nhà nghiên cứu đã ứng dụng thành công một số chế phẩm vi sinh để phòng trừ hiệu quả bệnh vàng lá thối rễ trên cây có múi và bệnh thán thư trên cây ăn quả, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và phát triển bền vững lĩnh vực sản xuất cây ăn trái với hiệu quả phòng trừ trên 70%, tăng hiệu quả kinh tế trên 10% so với phương pháp canh tác đại trà. Tỉnh Bến Tre đã nghiên cứu và sản xuất nhân tạo giống cua biển với tỷ lệ sống trên 40% và năng suất 2 tấn mỗi ha mỗi vụ. Nghiên cứu này giúp đa dạng hóa đối tượng nuôi trong vùng nước mặn lợ, tận dụng tối đa tiềm năng mặt nước và phát triển nghề nuôi cua biển từ các ao nuôi tôm kém hiệu quả, hạn chế rủi ro, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân trên diện tích đất canh tác.
Cũng tại Bến Tre, các nhà khoa học đã xây dựng quy trình ươm nuôi và kỹ thuật nuôi thương phẩm cá mú trân châu trong ao đất, mang lại hiệu quả kinh tế với tỷ suất lợi nhuận 17,4%. Dự án này không chỉ tổ chức tập huấn cho 30 học viên mà còn phối hợp với doanh nghiệp để định hướng phát triển sản phẩm cá mú trân châu Bến Tre. Các đơn vị và địa phương đã thành công trong việc xây dựng sản phẩm OCOP cá mú trân châu cấp đông, đạt mức phân hạng sản phẩm 3 sao và xúc tiến thị trường tiêu thụ.
Ông Trần Ngọc Tam, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, cho biết, trong năm 2023, tỉnh đã đạt và vượt 15/24 chỉ tiêu Nghị quyết Tỉnh ủy. Những chỉ tiêu quan trọng như thu ngân sách, GRDP bình quân đầu người, lao động qua đào tạo, giải quyết việc làm, tỷ lệ đô thị hóa, và xây dựng nông thôn mới đều đạt và vượt kế hoạch. Đóng góp của ngành khoa học và công nghệ thể hiện rõ qua việc tỷ lệ đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) vượt chỉ tiêu và đạt 47%. Tỷ lệ giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh đạt 37%, và Bến Tre nằm trong nhóm đầu cả nước về bảo hộ Chỉ dẫn địa lý với 9 sản phẩm được bảo hộ.
Tại tỉnh Long An, các nhà khoa học đã nghiên cứu và triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử sử dụng mã QR cho các sản phẩm nông nghiệp chủ lực như rau, dưa lưới, chuối, thanh long tại một số hợp tác xã địa phương, và xây dựng mô hình nuôi tôm thẻ ứng dụng công nghệ 4.0 tại huyện Tân Trụ. Tỉnh An Giang ứng dụng thiết bị bay không người lái để phun thuốc bảo vệ thực vật, sạ lúa, rải phân, phục vụ hoạt động sản xuất lúa của Hợp tác xã Nông nghiệp Sơn Hòa. Tại Tiền Giang, nhiều nghiên cứu đã được ứng dụng để xây dựng các mô hình vườn sầu riêng áp dụng kỹ thuật tiên tiến phục hồi sau hạn mặn và thích ứng với xâm nhập mặn, đồng thời sử dụng ao lót bạt HDPE để trữ nước ngọt đủ tưới cho cây sầu riêng trong 4 tháng mùa khô, mang lại hiệu quả cao. Tại thành phố Cần Thơ, các nhà khoa học đã xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ nhân giống nấm dạng dịch thể và sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu. Tỉnh Sóc Trăng phát triển mô hình nuôi tôm sú (Penaeus monodon) kết hợp với các loài cá có giá trị kinh tế cao như cá đối mục và cá măng, theo hướng bền vững tại khu vực ven biển. Theo Vụ Ứng dụng Công nghệ và Tiến bộ Kỹ thuật, đóng góp nổi bật nhất của khoa học công nghệ trong lĩnh vực này là việc đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào phát triển các sản phẩm chủ lực của địa phương và vùng ĐBSCL trong bối cảnh biến đổi khí hậu và dịch bệnh ngày càng gia tăng.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tại các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nhấn mạnh rằng chúng ngày càng gắn liền với thực tiễn sản xuất và đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi địa phương. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra rằng vùng ĐBSCL đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, và sạt lở diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ các nhà quản lý, chuyên gia, và doanh nghiệp để cùng thống nhất hành động và đạt kết quả tốt hơn trong thời gian tới.
Trong phiên tham luận, nhiều giải pháp đối phó với hạn hán và xâm nhập mặn đã được trình bày. PGS.TS Phùng Chí Sỹ (Đại học Nguyễn Tất Thành) đề xuất sử dụng hạt polyme siêu hấp thụ nước như một giải pháp trong nông nghiệp và cây trồng. Hạt polyme này có khả năng hấp thụ nước gấp 300 đến 400 lần so với trọng lượng của nó, với 1 kg có thể hấp thụ đến 350 lít nước và giữ nước trong 6-12 tháng hoặc lâu hơn. Giải pháp này giúp giữ ẩm, cung cấp nước cho cây, cải tạo đất và giảm 95% tỷ lệ cây chết do thiếu nước. Ông Sỹ cũng đề xuất các phương pháp giữ nước ngọt khác như sử dụng túi cao su và máy lọc nước từ không khí.
Đại diện Đại học Quốc gia TP HCM đề xuất công nghệ chuyển hóa phụ phẩm nông nghiệp thành carbon xốp để làm điện cực cho thiết bị khử mặn nước tưới tiêu tại ĐBSCL. Thiết bị khử mặn MCDI hoạt động theo nguyên lý hấp phụ điện hoá trên nền vật liệu carbon xốp, sử dụng nguyên liệu sinh khối dồi dào tại các tỉnh vùng ĐBSCL. Sản phẩm này đáp ứng yêu cầu khử mặn với công nghệ đơn giản, chi phí thấp và tiêu hao năng lượng thấp.
Trong khuôn khổ hội nghị, Cục Sở hữu Trí tuệ cùng Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre đã công bố việc tạo lập và bảo hộ quyền Chỉ dẫn địa lý cho 7 sản phẩm chủ lực gồm sầu riêng, tôm càng xanh, xoài tứ quý, cua biển, chôm chôm, gạo và nghêu.