Thứ hai 25/08/2025 06:04Thứ hai 25/08/2025 06:04 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Kiến thức nhà nông

Một số lưu ý khi sản xuất hạt tiêu hữu cơ

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Tiêu đen là một trong những loại gia vị quan trọng nhất được xuất khẩu ở nhiều nước. Ở Việt Nam, tiêu đen được sản xuất nhiều ở Phú Quốc (Kiên Giang), Chư Sê (Gia Lai), Lộc Ninh và Bù Đốp (Bình Phước), Xuyên Mộc và Châu Đức (Vũng Tàu) và một số vùng khác.
Một số lưu ý khi sản xuất hạt tiêu hữu cơ
Một số lưu ý khi sản xuất hạt tiêu hữu cơ - Ảnh minh họa.

Các phương pháp hữu cơ để sản xuất tiêu đen kiểu vụ trồng xen canh hoặc vụ trồng chuyên canh cần được tiến hành theo những tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ như cần có một vành đai ít nhất 25 m để ngăn cách với vườn tiêu truyền thống. Sản phẩm thu hoạch từ vành đai này không được xem là sản phẩm được sản xuất bằng phương pháp hữu cơ; các phần đất bẩn cần được loại khỏi để phòng ngừa sự xâm nhiễm khi ngập nước và lây nhiễm từ nông trại bên cạnh.

Với vườn tiêu truyền thống hiện hữu, cần tối thiểu 3 năm để chuyển đổi sang vườn tiêu hữu cơ. Với các vườn được trồng mới hoặc được trồng lại mà trước đó đã sử dụng các thực hành sản xuất hữu cơ, sản phẩm thu được có thể được xem là sản phẩm hữu cơ miễn là vụ mùa trước đó không sử dụng chất hóa học. Trong trường hợp đất canh tác là đất mới khai thác lần đầu hoặc là đất nông trại mà trước đây không sử dụng chất hóa học thì giai đoạn chuyển đổi có thể được bỏ qua. Với những vùng đất nhỏ thì phương pháp sản xuất hữu cơ nên được thực hiện chuyển đổi trên toàn diện tích. Với những nông trại có diện tích lớn, việc chuyển đổi sang canh tác hữu có thể được thực hiện theo nhiều giai đoạn nhưng cần được lập kế hoạch trước.

Nguồn giống tiêu là các chồi non từ thân hoặc từ cành trên không được chọn lọc từ cây mẹ cũng được trồng theo phương pháp hữu cơ. Tuy nhiên, ban đầu thì cành giâm có thể được chọn lọc từ vườn tiêu truyền thống hoàn toàn không hữu cơ. Các thực hành quản lý theo tiêu chuẩn hữu cơ sẽ được thực hiện trên những cành giâm. Các kỹ thuật vườn ươm như vườn đệm hoặc sự nhân giống nhanh bằng nuôi cấy mô có thể được áp dụng. Có thể sử dụng các thực hành sau để cho kết quả tốt hơn: - Phơi nắng đất trước khi sử dụng; - Sau đó, ủ đất với nấm cộng sinh và Trichoderma (250 g hỗn hợp trong 25 kg phân trộn); - Cành giâm có thể được được phun với nước thủy phân trùn để thúc đẩy sự tăng trưởng.

Hai bệnh hại quan trọng trong giai đoạn vườn ươm là thối lá do Rhizoctonia solanivà héo rủ do Sclerotium rolfsii. Có thể hạn chế tối đa các bệnh hại này bằng cách ủ đất sau khi đã phơi nắng với nấm cộng sinh và Trichoderma. Tuy nhiên, nếu bệnh vẫn xảy ra cục bộ có thể sử dụng Bordeaux 1% để xử lý. Ở những diện tích có vấn đề về tuyến trùn thì nên dùng dịch chiết hạt Neem (hạt cây Xoan Cạn) để xử lý. Các biện pháp xác định hàm lượng nước và sự nhiễm bẩn của đất cần được thực hiện khi chuẩn bị đất để trồng. Trong khi chọn các cây sống làm trụ, một số lượng lớn các loài có thể được khuyến cáo sử dụng để đảm bảo tính đa dạng sinh học. Tuy nhiên, không nên sử dụng cây thuộc họ Vông (Erythrina) vì chúng là cây mà tuyến trùn nốt rễ thường ẩn náu. Trồng 2-3 cành (cành đã bén rễ) rời nhau trong cùng 1 hố. Cành nên được trồng tránh gió trực tiếp. Có thể sử dụng 1 kg phân trộn hoặc phân bò đã hoai có trộn 125 phân lân quặng (32% P2Ọ5) khi trồng.

Khi các cành giâm nhú chồi non cần được buộc vào trụ là một điều cần thiết. Các dây còn non nên được bảo vệ tránh nắng mặt trời bằng cách tạo bóng che nhân tạo trong suốt mùa hè. Việc điều chỉnh bóng râm trên các trụ tiêu bằng cách xén bớt các nhánh nhằm cung cấp ánh sáng tối ưu và làm cho các nhánh còn lại phát triển mạnh hơn. Nếu mức độ râm quá cao trong giai đoạn ra hoa và tạo trái của dây tiêu sẽ tạo điều kiện cho sâu bọ phát triển. Việc tỉa cành vừa phải giúp bảo vệ cành mới và làm nguồn bổi che phủ gốc giúp tránh mất nước.

Sự phủ bổi thích hợp bằng lá xanh hoặc vật liệu hữu cơ nên vào khoảng cuối gió mùa Đông Bắc. Không nên xới gốc cây để tránh làm hại cho rễ, nhất là mùa mưa. Việc loại trừ có dại chỉ nên làm khi cần thiết bằng cách chặt và sau đó dùng chúng làm lớp bổi phủ gốc. Có thể trồng cây phủ đất bằng các cây như cây đậu Lông (Calapagonium mucunoides), cây Trinh Nữ Móc (Mimosa invisa) để tránh xói mòn và phát triển của cỏ dại. Vùng ven của vườn tiêu nên trồng các cây họ đậu để ngăn chặn xói mòn và dùng làm nguyên liệu trong ủ phân.

Phân trộn hoặc phân chuồng được dùng khoảng 20 kg/gốc/năm và bón trong khoảng tháng 5-6. Có thay thế một phần hoặc một nửa bằng phân trùn. Cần dựa trên kết quả phân tích đất, việc sử dụng phân lân quặng, bột xương, vôi, khoáng dolomite có thể được sử dụng. Tro gỗ có thể được dùng ở những diện tích đất bị thiếu Kali. Phân trộn được sản xuất từ các cành tiêu được tỉa, phế liệu mùa vụ, cỏ, phân bò, phân gia cầm… (được trộn chung với tro gỗ và/hoặc phân lân quặng) nên được sử dụng đều đặn thay vì dùng phân chuồng đơn lẻ. Phân trộn có thể được nâng cao chất lượng bằng cách bổ sung thêm các bánh dầu và các vi sinh vật phù hợp trước khi ủ và bón cho cây. Dịch chiết hạt Neem được dùng cho những khu vực bị nhiễm tuyến trùn. Có thể sử dụng phân sinh học thường xuyên với những loài nhất định.

Bệnh hại chính ở cây tiêu là bệnh chết nhanh (thối gốc) do nấm Phytophthora capsici (P. palmivora). Ít nghiêm trọng hơn là bệnh thán thư do Colletotrichum gloeosporioides. Để kiểm soát bệnh thối gốc, biện pháp vệ sinh thực vật phù hợp là rất quan trọng. Các hoạt động canh tác đất phải tránh tối đa việc làm xáo trộn đất và gây hại cho rễ. Sự tháo nước thích hợp là rất cần thiết. Có 4 triệu chứng để phát hiện bệnh: - Sự nhiễm trùng trên lá: các vết thương trên lá ở mép lá hoặc trung tâm của lá khi được ngâm trong nước sẽ thấy vùng rìa vết thương có những sợi tơ của nấm, sự rụng lá xảy ra khi lá bị nhiễm nặng; - Héo ngọn: các nhánh trên không bị nhiễm ở bất kỳ điểm nào. Tại vị trí nhiễm của nhánh xảy ra sự mất màu và quá trình thối rữa sau đó lan dần lên trên ngọn nhánh và xuống dưới nhánh. Các nhánh bên của nhánh bị nhiễm sẽ bị gãy ở các vị trí giao tiếp và rụng (rụng lóng); - Thối gốc và cổ rễ: thân gần mặt đất bị nhiễm và xảy ra sự thối và chết chỉ trong 2-3 tuần, phần bị nhiễm có mùi hôi, sự nhiễm sẽ lan dần xuống đất và tới hệ rễ; - Thối rễ: sự nhiễm bắt đầu ở rễ chính hoặc rễ nhánh, lá trở nên vàng và rụng.

Để phòng trừ bệnh hại, cần lựa chọn cành giống khỏe mạnh, tránh nhân cành từ cây mẹ có triệu chứng còi cọc, thoát nước tốt cho vườn tiêu, cắt tỉa những nhánh và lá yếu ớt, nhất là không để chúng tiếp xúc trực tiếp với đất. Sử dụng Trichoderma viridehoặc Pseudomonas fluorescens để kiểm soát phòng trừ bệnh. Sử dụng Trichoderma có trong sản phẩm BIOFERT M để bón vào gốc với liều 500 g/gốc/năm để phòng bệnh thối gốc do Phytophthora. Nên bón Trichoderma cùng với các đợt bón phân trộn, phân hữu cơ. Bất kỳ khi nào có bệnh thán thư hoặc có triệu chứng thối gốc nhẹ, phun một lượng giới hạn Bordeaux 1%. Sử dụng Trichodermađể phun đều lên cành và lá để phòng ngừa sự lây lan của mầm bệnh Phytophthora, nhất là khi vườn tiêu có triệu chứng bệnh (sử dụng BIOFERT MX với nồng độ 100-200 g trong 200 lít nước). Không phun Trichoderma khi trời mưa. Cũng có thể sử dụng dịch chiết hạt Neem để kiểm tra bệnh chết nhanh, chết chậm.

Các loài bọ Longitarsus nigripennis và Liothrips karnyl có thể được kiểm soát bằng cách phun dịch chiết hạt Neem (400 ml/100 lít nước) hoặc theo khuyến cáo. Cũng có thể dùng nước chiết cây thuốc lá để kiểm soát côn trùng có vẩy. Nếu cây bị nhiễm tuyến trùn nặng thì cần nhổ rễ cây trong giai đoạn ra hoa và đốt. Tiêu được thu hoạch khoảng 6-8 tháng sau khi ra hoa. Việc thu hoạch bằng cách hái cả cụm trái khi có những quả chín mọng màu đỏ vàng nhạt. Trong khi thu hoạch, không nên dùng hóa chất để diệt kiến đỏ. Các quả mọng được tách riêng và phơi khô trong 7-8 ngày trên sàn bê tông sạch. Thường xuyên đảo trộn để hạt được khô đồng đều khi phơi nắng. Nếu không đảo trộn, hạt có thể bị nhiễm mốc ở những hạt ướt và có màu xám không đẹp.

Để sản xuất tiêu đen có chất lượng, có thể dùng quá trình chần đơn giản. Các hạt tiêu vàng hơi lục được tách khỏi chùm sau khi hái. Sau khi làm sạch, cho vào rổ tre hoặc thùng nhôm và nhấn chìm trong nước sôi khoảng 1 phút. Sau đó trải ra nền xi măng hoặc chiếu tre để phơi nắng cho khô. Nước dùng đun sôi phải sạch và không bị nhiễm bẩn. Ưu điểm của việc chần tiêu: - Các hạt tiêu mọng chỉ cần 3-4 ngày để phơi, đo đó, tiết kiệm được thời gian; - Hạt tiêu khô sẽ đồng nhất hấp dẫn; - Giúp tối thiểu hóa sự nhiễm vi sinh và tích lũy bụi phấn, vì thế thu được sản phẩm hợp vệ sinh.

Để sản xuất tiêu trắng, chỉ thu hoạch những cụm trái mà có ít nhất 3-5 trái chín mọng. Tách những trái non ra khỏi lô. Cho trái mọng vào túi cói sạch và đặt ở góc phòng trong 1-2 ngày để làm chín những trái còn lại. Tách trái đã chín ra khỏi chùm. Cho trái chọn lọc vào túi cói sạch khoảng 50 kg. Nhấn chìm túi dưới sông hoặc suối nơi mà có nước sạch không bị ô nhiễm và lưu thông. Có thể thực hiện nhân tạo khâu này. Trong 6-9 ngày ngâm, vỏ ngoài của hạt tiêu bị phân hủy bởi sự lên men. Cho hạt tiêu vào bồn nước sạch rồi nhào trộn cho vỏ ngoài và các mô bị bong tróc hoàn toàn. Rửa nước để làm sạch hạt và loại những hạt bị vỡ. Làm khô ngay lập tức để tránh sự nhiễm nấm và mất màu trắng. Nếu phơi nắng, cần trải lớp mỏng trên chiếu tre hoặc nền xi măng. Mỗi 2 giờ cào thành đống và trải mỏng một lần để làm khô đồng đều. Khi ẩm độ đạt khoảng 11% thì có thể bảo quản trong các túi cói, polythene hoặc vải sạch.

Có thể sử dụng enxyme để thúc đẩy quá trình bóc vỏ. Thay vì ngâm hạt tiêu trong nước cho lên men tự nhiên, người ta ngâm chúng trong dịch cellulase. Các enzyme này chủ yếu là cellulase hiện đã được sản xuất và thương mại hóa rất phổ biến. Hạt tiêu được chỉ mất trên dưới 12 giờ để xử lý bóc vỏ bằng cellulase. Hạt tiêu sau khi bóc vỏ có màu trắng đồng nhất hấp dẫn, không có mùi hôi do lên men khi ngâm theo phương pháp truyền thống và giữ được mùi đặc trưng của hạt tiêu./.

Bài liên quan

CÁC TIN BÀI KHÁC

Thạch đen Cao Bằng – cây dại thành đặc sản, món quà của núi rừng

Thạch đen Cao Bằng – cây dại thành đặc sản, món quà của núi rừng

Thạch đen, hay còn gọi là sương sáo, là một món ăn giải khát quen thuộc ở nhiều vùng miền Việt Nam, nhưng thạch đen Cao Bằng lại mang một hương vị riêng biệt, được mệnh danh là “đặc sản núi rừng”.
Tình yêu với cây chè và khát vọng đổi mới - Bài 1:Tầm nhìn xa giữa vùng chè cổ

Tình yêu với cây chè và khát vọng đổi mới - Bài 1:Tầm nhìn xa giữa vùng chè cổ

Hành trình từ ý tưởng đến hiện thực OCOP 5 sao của hợp tác xã Chè Hảo Đạt Thái Nguyên là một câu chuyện điển hình về sự nỗ lực không ngừng, tư duy đổi mới và tầm nhìn xa. Để đạt được danh hiệu cao quý này, hợp tác xã Chè Hảo Đạt đã trải qua một hành trình dài, bài bản, kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và hiện đại.
Chuyển đổi và kiến tạo tương lai xanh - Kỳ 3: Xu hướng tiêu dùng xanh - Sức mạnh của sự lựa chọn

Chuyển đổi và kiến tạo tương lai xanh - Kỳ 3: Xu hướng tiêu dùng xanh - Sức mạnh của sự lựa chọn

Sự chuyển mình của nông nghiệp Việt Nam, từ những cánh đồng truyền thống đến mô hình canh tác hữu cơ hiện đại, đã mở ra một kỷ nguyên mới. Nhưng sản phẩm làm ra rồi sẽ đi về đâu? Liệu những nỗ lực của người sản xuất có được thị trường đón nhận? Câu trả lời không chỉ nằm ở chất lượng sản phẩm, mà còn ở sự thay đổi trong tư duy của chính người tiêu dùng.
Lợi ích nhiều mặt của nông nghiệp hữu cơ

Lợi ích nhiều mặt của nông nghiệp hữu cơ

Nông nghiệp hữu cơ không chỉ là một phương thức canh tác, mà còn là một triết lý sống, một sự trở về với những giá trị bền vững và hài hòa với thiên nhiên. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường và những lo ngại về sức khỏe con người ngày càng gia tăng, nông nghiệp hữu cơ nổi lên như một giải pháp toàn diện, mang lại những lợi ích vượt trội trên nhiều phương diện. Từ bảo vệ hành tinh xanh, nâng cao chất lượng cuộc sống, cho đến thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, những lợi ích mà nông nghiệp hữu cơ mang lại là vô cùng to lớn và sâu sắc.
Chuyển đổi và kiến tạo tương lai xanh - Kỳ 2: "Mở cánh cửa" mới cho nông nghiệp Việt

Chuyển đổi và kiến tạo tương lai xanh - Kỳ 2: "Mở cánh cửa" mới cho nông nghiệp Việt

Trong thế kỷ 21, mệnh lệnh "chuyển đổi xanh" đã vang lên mạnh mẽ, thôi thúc mọi lĩnh vực cùng hành động. Và không đâu khác, chính những cánh đồng bạt ngàn, những khu vườn trù phú của Việt Nam đang đón nhận làn gió đổi mới ấy. Giờ đây, câu chuyện về sản xuất xanh không chỉ gói gọn trong các khu công nghiệp, mà đã lan tỏa đến tận từng mảnh đất, từng hạt gạo, từng trái cây, mở ra một kỷ nguyên mới cho nền nông nghiệp, nơi mỗi sản phẩm được tạo ra đều mang trong mình giá trị của sự tử tế và trách nhiệm.
Bánh gai Chiêm Hóa - Linh hồn ẩm thực miền sơn cước

Bánh gai Chiêm Hóa - Linh hồn ẩm thực miền sơn cước

Nếu có dịp ghé thăm mảnh đất Tuyên Quang, đặc biệt là huyện Chiêm Hóa, bạn sẽ không thể cưỡng lại được sức hấp dẫn của một món ăn dân dã mà tinh tế: bánh gai. Món bánh này không chỉ là một đặc sản, mà còn là linh hồn của ẩm thực miền sơn cước, chứa đựng trong đó bao câu chuyện, văn hóa và tình người của vùng đất này.
Chuyển đổi và kiến tạo tương lai xanh - Kỳ 1: Xanh từ tư duy đến hành động

Chuyển đổi và kiến tạo tương lai xanh - Kỳ 1: Xanh từ tư duy đến hành động

LTS: Trong một thế giới đầy biến động, nơi biến đổi khí hậu không còn là câu chuyện của tương lai mà đã trở thành hiện thực, sản xuất xanh đã vượt lên trên khuôn khổ của một xu hướng để trở thành một lời giải cho bài toán phát triển bền vững. Không còn là lựa chọn, “xanh hóa” đã trở thành con đường duy nhất để doanh nghiệp tồn tại, bứt phá và vững vàng giữa những thách thức của thời đại. Từ những trang trại lúa hữu cơ đến những nhà máy hiện đại, từ hành vi mua sắm của người tiêu dùng đến các chính sách vĩ mô của Nhà nước, 8 kỳ bài viết này, sẽ cùng bạn đọc khám phá một bức tranh toàn cảnh về sản xuất xanh tại Việt Nam. Đây không chỉ là câu chuyện về kinh doanh, mà còn là hành trình của những con người dám sống khác biệt, dám dấn thân để kiến tạo một tương lai tươi sáng hơn, nơi kinh tế và môi trường không còn đối đầu mà cùng song hành phát triển.
Cua, Cáy, ở làng quê Việt Nam: Từ bình dân đến đặc sản

Cua, Cáy, ở làng quê Việt Nam: Từ bình dân đến đặc sản

Việt Nam, với đường bờ biển dài và hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, là một thiên đường cho các loài giáp xác, đặc biệt là cua và cáy. Hai loài vật này không chỉ đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái vùng nước lợ và nước mặn mà còn là nguồn thực phẩm phong phú, mang đậm hương vị đặc trưng của ẩm thực Việt Nam.
Hà Nội ban hành quy chế quản lý, vận hành Cổng thông tin điện tử

Hà Nội ban hành quy chế quản lý, vận hành Cổng thông tin điện tử

UBND thành phố Hà Nội vừa ban hành Quyết định số 4263/QĐ-UBND do Chủ tịch UBND thành phố Trần Sỹ Thanh ký, chính thức quy định việc quản lý, vận hành và cung cấp thông tin trên Cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước thuộc thành phố.
Cháo Ấu tẩu - Món quà từ đất mẹ vùng cao

Cháo Ấu tẩu - Món quà từ đất mẹ vùng cao

Ẩm thực Việt Nam là một bức tranh đa sắc, mỗi vùng miền lại có một nét chấm phá riêng biệt. Trong số đó, ẩm thực miền núi phía Bắc luôn mang một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc nhưng ẩn chứa nhiều điều bất ngờ, đặc biệt là với những món ăn được chế biến từ những nguyên liệu đặc trưng của núi rừng. Và khi nhắc đến Hà Giang (Tuyên Quang), một trong những món ăn không thể bỏ qua chính là cháo Ấu tẩu.
Gỏi cá nhệch Ninh Bình: ẩm thực độc lạ đất cố đô

Gỏi cá nhệch Ninh Bình: ẩm thực độc lạ đất cố đô

Trong bản đồ ẩm thực phong phú của vùng đất cố đô Ninh Bình, bên cạnh những món ăn đã quá quen thuộc như thịt dê núi hay cơm cháy, có một món ăn khác mang đậm dấu ấn của sự cầu kỳ, tinh tế và độc đáo, đó chính là gỏi cá nhệch. Không chỉ là một món ăn đơn thuần, gỏi cá nhệch còn là một tác phẩm nghệ thuật ẩm thực, đòi hỏi sự tỉ mỉ của người chế biến và sự sành ăn của người thưởng thức.
Một số giải pháp để phát triển nghề nuôi ốc hương tại Huế

Một số giải pháp để phát triển nghề nuôi ốc hương tại Huế

Ốc hương (Babylonia areolata) là loài hải sản có giá trị kinh tế cao, thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, có nhu cầu tiêu thụ lớn đã và đang được thị trường trong nước lẫn xuất khẩu ưa chuộng.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính