![]() |
Đây là phát biểu của chuyên gia Từ Thị Tuyết Nhung, UVBTV Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam, Chủ tịch Liên Minh các PGS Việt Nam chia sẻ tại tọa đàm "Thực phẩm hữu cơ - phương pháp sản xuất và nhận diện trên thị trường tổ chức tại Tp. Hà Nội, ngày 26/2/2025.
Nghị quyết số 19-NQ/TW/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ "khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn." Trước đó, năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ và năm 2020 có Quyết định số 885/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030. Đây là tiền đề, cơ sở quan trọng để nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam bắt kịp xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. |
Sản xuất hữu cơ là sử dụng các phương pháp thực hành nông nghiệp bền vững, không sử dụng các hóa chất tổng hợp như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân bón hóa học, chất kích thích sinh trưởng, chất bảo quản hóa học,.. Thay vào đó là sử dụng các loại phân hữu cơ truyền thống như phân chuồng, phân xanh, phân rác và phân hữu cơ công nghiệp như phân vi sinh, phân sinh học; sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học.
Mục đích của sản xuất hữu cơ là tạo ra các sản phẩm nông nghiệp bằng cách sử dụng các phương pháp và hệ thống sản xuất có thể duy trì sự cân bằng với môi trường tự nhiên, hạn chế việc sử dụng hóa chất độc hại gây ô nhiễm đất, nước và không khí. Cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao hơn, ngon hơn và an toàn hơn cho người tiêu dùng. Sản xuất hữu cơ tập trung vào việc tạo ra môi trường thích hợp cho sự phát triển và sức đề kháng tự nhiên cho cây trồng, chống lại sâu, bệnh mà không cần sử dụng các hóa chất độc hại; từ đó tạo ra một môi trường nông nghiệp đa dạng, hỗ trợ sự phát triển của cây trồng.
Lợi ích của sản xuất theo hướng hữu cơ là bảo vệ đa dạng sinh học, cân bằng hệ sinh thái tự nhiên; duy trì và nâng cao sức khỏe của con người trong tất cả các khâu từ canh tác, chế biến, phân phối đến tiêu dùng; tăng cường sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững; giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ nguồn nước, đất đai và không khí; nâng cao chất lượng dinh dưỡng của thực phẩm, giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như ung thư, tim mạch, tiểu đường,...; tăng cường sức đề kháng của con người, giúp phòng chống bệnh tật; thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Theo chuyên gia Từ Thị Tuyết Nhung, hiện nay nhiều sản phẩm "gắn tên" Hữu cơ trên thị trường không biết có đúng tiêu chuẩn hay không, khi người tiêu dùng luôn đặt câu hỏi liệu sản phẩm có thực sự là hữu cơ hay không? Đặc biệt công tác quản lý các sản phẩm hữu cơ trên thị trường hiện nay vẫn đang còn gặp nhiều thách thức, đáng chú ý một số thuật ngữ thường dùng hiện nay như hướng hữu cơ rất dễ gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Làm hữu cơ là phải làm theo tiêu chuẩn, theo Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông nghiệp hữu cơ do Chính phủ ban hành. Bên cạnh đó làm hữu cơ thì người sản xuất phải công bố tiêu chuẩn hữu cơ mình làm và phải trải qua giai đoạn chuyển đổi nhất định trước khi được đánh giá và cấp chứng chận tiêu chuẩn hữu cơ
Cũng theo chuyên gia Từ Thị Tuyết Nhung, hiện Trung tâm hỗ trợ phát triển nông nghiệp hữu cơ (CODAS), trực thuộc Hiệp hội Nông nghiệp Hữu cơ Việt Nam đang thực hiện một nghiên cứu liên ngành với nhiều đối tác (Học viện Nông nghiệp, Đại học Y tế Công cộng, Viện rau quả Trung ương, mạng lưới người tiêu dùng sẵn có...) về "Nghiên cứu dự báo và giám sát can thiệp dinh dưỡng – NIFAM (Nutrition Intervention Forecasting and Monitoring)”.
Theo Liên đoàn các tổ chức nông nghiệp hữu cơ (IFOAM), NNHC là một hệ thống sản xuất nhằm duy trì sức khỏe của đất, hệ sinh thái và con người. Để đạt được tiêu chuẩn NNHC, người sản xuất phải tuân thủ các nguyên tắc nghiêm ngặt, dựa trên các tiến trình sinh thái, đa dạng sinh học và chu trình thích nghi với điều kiện địa phương thay vì sử dụng các yếu tố đầu vào bất lợi khác. NNHC kết hợp phương pháp canh tác truyền thống với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, mang lại lợi ích cho môi trường, thúc đẩy mối quan hệ bình đẳng và nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
Mặc dù diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam nhỏ nhưng vẫn có rất nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, giúp nâng tầm sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Tính đến cuối năm 2023, cả nước hiện có 495.000ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chiếm 4,3% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, chiếm 0,69% diện tích sản xuất hữu cơ của thế giới.
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đang là xu hướng người tiêu dùng biết đến và lựa chọn. Các chuyên gia ngành nông nghiệp đánh giá đây là sản phẩm bảo đảm hệ sinh thái bền vững, thực phẩm an toàn, dinh dưỡng tốt, không sử dụng hóa chất trong canh tác, cũng như các chất sinh trưởng phi hữu cơ.
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn mà còn giúp nông dân nâng cao kiến thức, tay nghề, thay đổi nếp nghĩ, cách làm, tư duy truyền thống sang an toàn, trách nhiệm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Giá trị nông sản hữu cơ cũng vượt trội so với giá bán thông thường. Đơn cử như các mặt hàng quế, hồi, điều nhân, hồ tiêu hay cơm dừa, giá bán dòng sản phẩm hữu cơ đạt tiêu chuẩn chứng nhận Organic EU và Organic USDA cao hơn từ 10% đến 25%, thậm chí cao hơn nữa so với sản phẩm thông thường cùng loại.
Không những thế, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng hữu cơ tại nhiều thị trường, như: châu Âu, Hoa Kỳ ngày một gia tăng, do thay đổi thói quen ăn uống, người tiêu dùng có xu thế ăn các sản phẩm sạch có nguồn gốc tự nhiên, có tác dụng giảm cân, thay thế thịt và các sản phẩm thông thường.
![]() Nông nghiệp hữu cơ đang trở thành xu hướng toàn cầu khi người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sức khỏe và môi trường. ... |
![]() Trong những năm gần đây, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đang ngày càng trở nên phổ biến và nhận được sự tin dùng từ ... |
![]() Sáng 27/2/2025, tại Hà Nội, Tạp chí Hữu cơ Việt Nam tổ chức Lễ phát động cuộc thi viết “Nông nghiệp Hữu cơ - Vì ... |