Phát triển nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. |
Chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ
Trong những năm vừa qua nông nghiệp Việt Nam đã và đang thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh. Nông nghiệp xanh sử dụng các phương pháp canh tác thông minh, sử dụng phân bón hữu cơ, giảm sử dụng hóa chất và thuốc trừ sâu, áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm nước, ứng dụng công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, phế thải, nâng cao hiệu quả sản xuất, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển nông nghiệp bền vững.
Đối với Việt Nam, lịch sử canh tác hữu cơ đã hình thành từ lâu, song do cơ chế chính sách và thị trường tiêu thụ, khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất hữu cơ còn hạn chế. Hơn nữa trong thời gian dài, Việt Nam chưa có tổ chức nông nghiệp hữu cơ, mãi đến năm 2011, Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam mới ra đời. Do đó, diện tích nông nghiệp hữu cơ ở nước ta còn khiêm tốn. Mặc dù diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam nhỏ nhưng vẫn có rất nhiều mô hình sản xuất hiệu quả, giúp nâng tầm sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.
Theo Tổ chức Nông nghiệp hữu cơ quốc tế (IFOAM), phát triển nông nghiệp hữu cơ là xu hướng tất yếu của nông nghiệp thế giới và xác định tầm nhìn chiến lược của nông nghiệp hữu cơ đến năm 2030 sẽ góp phần giải quyết các thách thức trong tương lai của nông nghiệp.
Trong bối cảnh đó, nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện phát triển nông nghiệp xanh đã được ban hành, như: Trong bối cảnh đó, nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện phát triển nông nghiệp xanh đã được ban hành, như: Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 khẳng định, vai trò của nông nghiệp là lợi thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế, trong đó phát triển nông nghiệp gắn với nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn, gắn với nhu cầu thị trường.
Tại Việt Nam, sau khoảng hơn 10 năm hình thành và phát triển, nông nghiệp hữu cơ được quan tâm đặc biệt, ngày 23/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 885/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030". Đề án đặt ra mục tiêu: Phát triển nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ của khu vực và thế giới; đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới.
Ngày 9/12/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 44/CT-TTg về triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. Trong đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn, công nghệ cao, bảo vệ môi trường, giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu; hoàn thiện hạ tầng nông nghiệp, nông thôn thích ứng với biến đổi khí hậu, trọng tâm là các công trình thủy lợi, nước sạch phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; tập trung triển khai hiệu quả Đề án "Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030".
Nông nghiệp hữu cơ là ưu tiên trong cách thức canh tác và sản xuất của nông nghiệp xanh. |
Thúc đẩy tăng trưởng xanh
Thực hiện các chủ trương, định hướng tăng trưởng xanh hướng đến phát triển kinh tế xanh, Việt Nam đã và đang chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế và tiếp cận với xu hướng phát triển kinh tế xanh của thế giới.
Nông nghiệp hữu cơ là ưu tiên trong cách thức canh tác và sản xuất của nông nghiệp xanh. Tính đến cuối năm 2023, cả nước hiện có 495.000ha sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chiếm 4,3% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp của Việt Nam, chiếm 0,69% diện tích sản xuất hữu cơ của thế giới. Nếu như năm 2018 trên địa bàn cả nước có 46 địa phương tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ hoặc đang chuyển đổi sang canh tác hữu cơ thì đến năm 2023 đã có 63 địa phương thực hiện. Kim ngạch xuất khẩu nông sản hữu cơ của Việt Nam đạt trên 335 triệu USD/năm, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam được tiêu thụ trong nước và còn xuất khẩu sang 180 nước trên thế giới gồm: Mỹ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Nhật, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan… Các quốc gia trên đều là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất trên thế giới.
Có thể thấy, nông nghiệp xanh, hữu cơ tại Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, thực tế, vẫn còn tồn tại một số “nút thắt” cần được tháo gỡ như: Chưa có quy hoạch về sản xuất hữu cơ, chưa có các cơ chế, chính sách riêng hỗ trợ cho sản xuất hữu cơ, mà lồng ghép thực hiện trong các chương trình. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ đang là “rào cản” cho việc áp dụng hình thức sản xuất khép kín, tập trung với diện tích canh tác lớn. Người tiêu dùng chưa thực sự tin tưởng và chưa có kinh nghiệp phân biệt giữa sản phẩm sản xuất hữu cơ và các sản phẩm thông thường khác. Trình độ, năng lực tiếp cận khoa học và công nghệ còn nhiều hạn chế, dẫn tới quá trình phát triển nông nghiệp xanh còn chậm. Người nông dân hiện vẫn còn những thói quen, tư duy cũ trong sản xuất vẫn chưa được xóa bỏ, như: sử dụng quá mức phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật, lạm dụng thuốc trong chăn nuôi - thú y - thuỷ sản, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm… đang ngày càng trở thành vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người, môi trường sinh thái.
Để thúc đẩy tăng trưởng xanh, hội nhập trong kinh tế quốc tế, Việt Nam cần có những bước đi mới và có tầm nhìn để chuyển đổi sang hệ thống nông nghiệp xanh, ít phát thải và bền vững, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp sau:
Một, Nhà nước cần tăng cường sự phối hợp liên cơ quan để đảm bảo tính thống nhất, đồng thuận và huy động sức mạnh tổng hợp trong các chính sách tăng trưởng xanh, từ đó góp phần giảm sự thiếu nhất quán, thúc đẩy sự nỗ lực hợp tác hành động cả ở cấp trung ương và địa phương. Ngoài ra, Nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thực hiện tăng trưởng xanh, hướng tới nông nghiệp xanh và phát triển bền vững. Đây được xem là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa bao trùm, định hướng hành vi của các chủ thể hướng tới mục tiêu phát triển xanh hóa nền kinh tế, giải quyết các vấn đề về kinh tế, môi trường và xã hội.
Hai, cần có chính sách tín dụng vốn đầu tư phù hợp với các hộ gia đình để họ đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế xanh, thì vốn là nguồn lực quan trọng. Việc hình thành và phát triển các mô hình sản xuất theo hướng "xanh" đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn hơn so với mô hình sản xuất thông thường, do đó cần có sự hỗ trợ nguồn vốn cho việc phát triển.
Ba, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ xanh, cung cấp các chương trình đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho người lao động để thu hẹp khoảng cách về công nghệ, thúc đẩy đổi mới và phát triển bền vững. Từ đó, sẽ giúp người nông dân chủ động trong sản xuất; đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học mới vào sản xuất.
Bốn, tuyên truyền, tập huấn cho người dân về lợi ích của việc sản xuất nông nghiệp sạch: giúp giảm chi phí sản xuất, tạo ra nhiều loại nông sản sạch có giá trị cao, tăng hiệu quả kinh tế,… Đặc biệt, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất, tiêu thụ nông sản, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường và quảng bá sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
Năm, xây dựng, đào tạo các hợp tác xã tiêu thụ nông sản hàng hóa. Các địa phương cần tạo dựng những vùng sản xuất chuyên canh, quy mô lớn, được chuẩn hóa với những quy trình canh tác chặt chẽ; đồng thời, chuyển đổi số để khớp nối thông tin giữa sản xuất và tiêu thụ, qua đó truy xuất được nguồn gốc sản phẩm. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức để nâng cao nhận thức của các chủ thể về phát triển nông nghiệp hữu cơ thúc đẩy tăng trưởng xanh, từ đó những kiến thức hiểu biết về nền kinh tế xanh sẽ tác động và dần thay đổi thói quen, hành vi sản xuất, tiêu dùng của các chủ thể.
Như vậy, để thúc đẩy tăng trưởng xanh, trong đó có việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ cần phải triển khai các giải pháp theo nhiều phương diện và phối hợp với nhiều cơ quan, ban ngành, doanh nghiệp, nông dân…
Với tiềm năng da dạng sinh học của Việt Nam, chính sách hỗ trợ kịp thời của Nhà nước, sự lao động cần cù, thông minh của nông dân, sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác xã, doanh nghiệp với việc áp dụng nông nghiệp công nghệ cao, phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ Việt Nam tự tin sẽ đạt mục tiêu trở thành cường quốc về nông nghiệp trên thế giới.