Trong tiến trình đấu tranh, giải phóng, giữ gìn độc lập, xây dựng và phát triển đất nước, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có đóng góp vô cùng to lớn vào sự thành công trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh đổ Đế quốc Mỹ và thống nhất đất nước; có vai trò quan trọng cho sự ra đời và thắng lợi của công cuộc Đổi mới đất nước.
Trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới; nông thôn là môi trường sống, là không gian cho phát triển kinh tế- xã hội đất nước, gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội, nơi gìn giữ và phát triển các di sản văn hoá, bảo vệ các giá trị của nền văn minh lúa nước.
Ngư dân ra khơi đánh cá - Ảnh minh họa. |
Giai đoạn 1945- 1975, nông nghiệp, nông dân, nông thôn là những yếu tố đặc biệt quan trọng đóng góp vào sự thành công trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh đổ Đế quốc Mỹ và thống nhất đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đã chỉ rõ: Lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc. Động lực của cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và giai cấp tư sản, chủ yếu là công nhân và nông dân.
Lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Cuộc cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến do nhân dân tiến hành, trong đó, công nông là động lực chủ yếu và do giai cấp công nhân lãnh đạo gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hơn 80% lực lượng chiến đấu, phục vụ chiến đấu và hy sinh trên chiến trường là nông dân. Địa bàn nông thôn là căn cứ địa của 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Có thể nói, trong những lúc khó khăn nhất, địa bàn nông thôn là chỗ dựa của cách mạng, là nơi bảo vệ, chở che cái nôi cách mạng; giai cấp nông dân là lực lượng bảo vệ Đảng, chính quyền nhân dân còn non trẻ và những lúc khó khăn nhất, Đảng, chính quyền đã dựa vào nông dân.
Động lực của cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và giai cấp tư sản, chủ yếu là công nhân và nông dân - Ảnh minh họa. |
Ở Miền Bắc: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công dân cùng với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân khác có nhiệm vụ thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng do Đảng đề ra: Vừa làm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa tiếp tục đấu tranh để hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Ở miền Nam: Thực hiện chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng và Chính phủ, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở nông thôn miền Nam, Nông hội vừa tích cực tổ chức, vận động nông dân chuẩn bị đấu tranh lâu dài, vừa khẩn trương tranh thủ thời gian trước khi bàn giao các địa bàn cho đối phương để thực hiện chia cấp ruộng đất, củng cố sản xuất, ổn định đời sống. Thắng lợi của phong trào nông dân nổi dậy và cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè 1972 đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh và tiến tới ''Tổng tấn công'' mùa Xuân năm 1975 giành thắng lợi trọn vẹn, đất nước thống nhất hai miền Nam Bắc.
Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững an ninh lượng lượng quốc gia - Ảnh minh họa. |
Trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp và nông nghiệp là hai bộ phận chủ yếu quan hệ mật thiết với nhau: Công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, giữ vai trò chủ đạo, và nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp là nền tảng của kinh tế kháng chiến. Trong nền tảng nông nghiệp đó, kinh tế tiểu nông lại là bộ phận cốt cán. Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Trong nông nghiệp, chúng ta đạt và vượt kế hoạch về sản xuất lương thực và nhiều loại cây công nghiệp, mặc dầu phân bón, thuốc trừ sâu, năng lượng được cung ứng ít hơn trước - Ảnh minh họa. |
Trong thời kỳ mới của công cuộc xây dựng đất nước (1976-1986), giai cấp nông dân là một trong ba yếu tố cấu thành liên minh với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức, làm nền tảng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Năm 1976, nông dân có 37,3 triệu người chiếm 79,4% dân số. Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Trong nông nghiệp, chúng ta đạt và vượt kế hoạch về sản xuất lương thực và nhiều loại cây công nghiệp, mặc dầu phân bón, thuốc trừ sâu, năng lượng được cung ứng ít hơn trước. Trước mắt, hình thức khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động đang trở thành một động lực thúc đẩy phong trào thi đua phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp. Giai đoạn 1981-1986, nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,9% so với 1,9% hằng năm của thời kỳ 1976-1980. Sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức bình quân hằng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980 đã tăng lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981-1985.
Nhân dân vui Xuân đón Tết - Ảnh minh họa. |
Giai đoạn Đổi mới, giai cấp nông dân và kinh tế nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò quan trọng cho sự ra đời và thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước (1986-2024). Nông nghiệp, nông thôn và nông dân là 3 nhân tố góp phần quan trọng để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội những năm của thập niên 1980, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khoá X về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã chỉ rõ: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khoá X về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Ban Chấp hành Trung ương Khoá XIII đã ban hành Nghị quyết số 19- NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó đánh giá cao vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đó là: Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng ở mức khá cao, khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; Việt Nam trở thành một trong những nước có một số mặt hàng xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Nông dân đã phát huy tốt hơn vai trò là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp; tham gia hợp tác, liên kết, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế, khôi phục và phát triển ngành nghề nông thôn, xây dựng nông thôn mới, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn dân; xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; môi trường xanh, sạch, đẹp; đời sống văn hoá lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm.
Sau gần 40 năm đổi mới, khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn có bước phát triển mạnh mẽ, giá trị toàn ngành tăng liên tục; nông nghiệp Việt Nam từ chỗ thiếu hụt triền miên cung không đáp ứng cầu, đến nay không chỉ cung ứng đủ lương thực, thực phẩm, đảm bảo an ninh lương thực và ổn định kinh tế - xã hội mà còn phục vụ đắc lực cho xuất khẩu. Nếu như năm 1986, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt 486 triệu USD, thì đến năm 2023, Việt Nam đã có nhiều năm liền trở thành một trong những nước xuất khẩu nông - lâm - thủy sản hàng đầu thế giới với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành năm 2023 đạt 53.01 tỷ USD, gấp 109 lần so với năm 1986, trong đó có một số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, như: Cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm gỗ,… nông sản Việt Nam đã có mặt ở 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường khó tính như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU. Tỷ lệ che phủ rừng tăng lên và giữ ổn định ở mức 42,02%, cao hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới (khoảng 29%). Đến nay, cả nước có 78% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 283 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; có 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 05 tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Môi trường nông thôn khang trang, sạch đẹp, kết cấu hạ tầng hiện đại; hệ thống, điện, đường, trường, trạm, nước sạch, các thiết chế văn hoá, y tế, giáo dục cơ bản đáp ứng nhu cầu của Nhân dân, kể cả những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Mức sống của người dân nông thôn tăng liên tục, nếu như năm 1986 thu nhập bình quân đầu người của dân cư khoảng 1.600 đồng/người/tháng, thì năm 2023 thu nhập bình quân đầu người của dân cư dân nông thôn khoảng 4,17 triệu đồng/người/tháng, dự báo cuối năm 2024, Việt Nam sẽ có mức thu nhập trung bình cao của thế giới. Tỉ lệ hộ nghèo giảm liên tục, nếu như năm 1986, tỉ lệ hộ nghèo trên 50%, thì đến năm 2023, tỉ lệ hộ nghèo đa chiều chỉ còn 5,71%. Chỉ số phát triển con người tăng liên tục suốt mấy thập kỷ qua, từ 0,561 năm 1985 đến năm 2022 là 0,726, đứng thứ 107 trên 193 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong giai đoạn mới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối diện với nhiều cơ hội và thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục là xu thế lớn nhưng gặp nhiều trở ngại, thách thức trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược, chiến tranh thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Vốn ODA giảm, vốn FDI có xu thế hướng tới những vùng lãnh thổ có môi trường đầu tư thuận lợi và các ngành sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao. Kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn.
Nhiều quốc gia điều chỉnh lại chiến lược phát triển theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, tăng cường tính tự chủ, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Các quốc gia chậm trễ trong lựa chọn mô hình phát triển phù hợp sẽ bị bỏ lại xa hơn trong tương lai. Xu thế đô thị hóa, già hóa dân số đang ngày càng gia tăng. Dân số thế giới tiếp tục tăng nhanh, có thể đạt 9 tỉ người vào năm 2030; nhu cầu thực phẩm an toàn và môi trường sống xanh, sạch, đẹp ngày càng tăng, vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức cho phát triển nông nghiệp bền vững. Nông nghiệp có vai trò quan trọng hơn đối với an sinh xã hội, y tế, xóa đói giảm nghèo. Việc thực hiện các cam kết quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính tác động nhiều mặt đến công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Ở trong nước, xu hướng công nghiệp hóa và đô thị hóa được đẩy mạnh vừa tạo thuận lợi về thị trường tiêu thụ nông sản, cung cấp vật tư, thiết bị cho nông nghiệp, việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn; lao động và đất đai nông nghiệp sẽ chuyển dần sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, lấy công nghiệp, dịch vụ để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, đô thị hỗ trợ nông thôn. Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, dữ liệu lớn và điện toán đám mây đang dần trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành, lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng số, đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Mạng lưới viễn thông và Internet băng thông rộng phủ sóng rộng khắp cả nước, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra các yêu cầu cao hơn về bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện gia tăng dân số, đô thị hóa mạnh mẽ, thoái hóa đất và diện tích đất nông nghiệp đang dần bị thu hẹp. Trong bối cảnh đó việc quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng nhằm khai thác tối đa tiềm năng lợi thế nguồn lực đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên biển và đa dạng sinh học, góp phần thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, tạo việc làm, sinh kế cho người dân nông thôn và xây dựng nông thôn mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội là nhiệm vụ cần được tiếp tục thực hiện khẩn trương và quyết liệt hơn nữa. Hướng tới cột mốc lịch sử 100 năm thành lập Đảng và tiếp đó là 100 năm thành lập nước, nông nghiệp, nông dân, nông thôn cần có bước chuyển mình mạnh mẽ hơn nữa, chú trọng tới các vấn đề lớn:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Đảng, phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo và hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành của Nhà nước; tăng cường vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền, người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nâng cao năng lực, trách nhiệm của chính quyền và cơ quan quản lý nhà nước các cấp về nông nghiệp, nông dân, nông thôn bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, phát huy đầy đủ, hiệu quả vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể trong tham gia phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Thứ hai, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước, củng cố tiềm lực quốc gia. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập. Hoàn thiện thể chế phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, ưu tiên nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, kiên định, kiên trì thực hiện các mục tiêu: Nông dân và cư dân nông thôn văn minh, phát triển toàn diện, có thu nhập cao. Nông nghiệp sinh thái, sản xuất hàng hoá quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, gắn kết chặt chẽ với thị trường trong và ngoài nước, công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản hiện đại, xuất khẩu nhiều loại nông sản đứng hàng đầu thế giới. Nông thôn hiện đại, có điều kiện sống tiệm cận với đô thị, môi trường sống xanh, sạch, đẹp, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc.
Thứ ba, các cơ quan quản lý nông nghiệp, nông dân, nông thôn cần đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành và hiệu quả tổ chức thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác giữa các cơ quan, tổ chức của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn từ cấp Trung ương tới địa phương; khắc phục triệt để sự trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính. Tiếp tục rà soát, sắp xếp, sáp nhập, tinh gọn đầu mối bên trong; hợp nhất, sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập để thu gọn đầu mối, giảm biên chế; thực hiện cơ chế khoán kinh phí theo nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra. Chuyển một số nhiệm vụ và dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm.
Rà soát nhiệm vụ, quyền hạn để phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa cơ quan quản lý chuyên ngành ở Trung ương với địa phương gắn với kiểm tra, giám sát, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ các cấp, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương; tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, dân chủ trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, tuyển dụng công chức, viên chức để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chú trọng công tác đào tạo nâng cao năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính gắn kết chặt chẽ với việc kiện toàn tổ chức, giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế của các cơ quan quản lý nông nghiệp, nông dân, nông thôn, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân.
Thứ tư, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thân thiện với môi trường. Đẩy nhanh chuyển đổi số, số hoá toàn diện ngành nông nghiệp từ hoạt động quản lý nhà nước, sản xuất kinh doanh đến thị trường; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Xây dựng, hoàn thiện và kết nối đồng bộ cơ sở dữ liệu lớn về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số, tạo ra các mô hình sản xuất kinh doanh mới.