![]() |
| Các chính sách ưu đãi về thuế, phí, cũng như cơ chế bảo lãnh tín dụng sẽ giúp các HTX, THT hoạt động hiệu quả hơn. |
Chính sách của Nhà nước về hỗ trợ vốn cho HTX, THT
Nhận thức rõ vai trò của HTX, THT trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ khu vực kinh tế tập thể tiếp cận nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Trước hết, hệ thống chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn được triển khai thông qua các tổ chức tín dụng, trong đó có nhiều ngân hàng tham gia. Một số ngân hàng đã triển khai gói tín dụng xanh trong lĩnh vực nông nghiệp như: Ngân hàng Chính sách Xã hội có các chương trình cho vay hỗ trợ HTX, THT thông qua các kênh ủy thác qua Hội/Đoàn thể (như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ) hoặc cho vay trực tiếp; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có các gói lớn như cho vay nông nghiệp công nghệ cao (quy mô 50.000 tỷ đồng), gói tín dụng OCOP 2.000 tỷ, gói tín dụng xanh cho khách hàng cá nhân 10.000 tỷ… Hay như ngân hàng ADB & World Bank là các tổ chức quốc tế đang thúc đẩy khung chính sách và cơ chế de-risking (bảo lãnh, tín dụng lại, kỹ thuật) để mở rộng tài trợ cho nông nghiệp xanh; ADB có các nghiên cứu, đề xuất giải pháp về green finance cho Việt Nam; World Bank tăng cường cơ chế finance để hỗ trợ chuyển đổi xanh, trong đó có sáng kiến Sustainable Finance Facility (SFF). Những công cụ này là nguồn lực quan trọng để ngân hàng thương mại tận dụng vốn ODA/OA để cho vay lại dự án nông nghiệp xanh.
Thông qua các chương trình đó, các HTX, THT và nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất trực tiếp hoặc trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, nhất là các mô hình sản xuất an toàn, hữu cơ, liên kết chuỗi giá trị, được ưu tiên tiếp cận các khoản vay với lãi suất ưu đãi, thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất.
Bên cạnh đó, Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX được thành lập ở Trung ương và nhiều địa phương, trở thành kênh vốn quan trọng hỗ trợ HTX, THT đầu tư phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực hoạt động. Thông qua quỹ, nhiều HTX đã có điều kiện tiếp cận vốn vay với thủ tục linh hoạt hơn so với ngân hàng thương mại, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn trong giai đoạn đầu phát triển.
Các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình xây dựng nông thôn mới và Chương trình phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác giai đoạn 2021–2025, cũng dành nguồn lực đáng kể cho HTX, THT. Thông qua các chương trình này, HTX, THT được hỗ trợ đầu tư hạ tầng, máy móc, thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi sản xuất theo hướng hữu cơ, bền vững.
Ngoài ra, các chính sách ưu đãi về thuế, phí, cũng như cơ chế bảo lãnh tín dụng cho HTX, THT từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế tập thể tiếp cận nguồn vốn chính thức.
![]() |
| Mô hình nuôi gà đẻ trứng ở TP. Hà Nội. |
Thực trạng tiếp cận vốn của HTX, THT nông nghiệp
Mặc dù, Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ cho HTX, THT vay vốn sản xuất, nhưng thực tiễn cho thấy, phần lớn HTX và THT nông nghiệp có quy mô nhỏ, vốn điều lệ thấp, năng lực tài chính hạn chế. Nhiều HTX được hình thành trên cơ sở liên kết tự nguyện của nông dân, tài sản chủ yếu là đất đai, nhà xưởng nhỏ lẻ, chưa đủ điều kiện để làm tài sản đảm bảo cho các khoản vay tín dụng. Đây là rào cản lớn khi tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng thương mại.
Bên cạnh đó, năng lực quản trị, đặc biệt là quản trị tài chính của nhiều HTX, THT còn yếu. Việc xây dựng phương án sản xuất – kinh doanh, dự toán dòng tiền, lập báo cáo tài chính chưa bài bản, thiếu tính thuyết phục, khiến các tổ chức tín dụng khó đánh giá hiệu quả và khả năng hoàn trả vốn vay. Không ít HTX, THT vẫn hoạt động dựa nhiều vào kinh nghiệm, chưa hình thành được tư duy quản trị minh bạch, hiện đại.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ, khó khăn về vốn càng trở nên rõ nét. Chu kỳ sản xuất kéo dài, chi phí đầu tư ban đầu lớn cho cải tạo đất, giống, vật tư sinh học và chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ, trong khi thời gian thu hồi vốn chậm, rủi ro cao do tác động của thời tiết và thị trường. Điều này khiến nhiều ngân hàng chưa mạnh dạn mở rộng tín dụng trung và dài hạn cho các HTX, THT sản xuất hữu cơ.
Ngoài ra, tại nhiều địa phương, HTX và THT còn hạn chế trong việc tiếp cận thông tin chính sách. Việc thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách am hiểu về tín dụng, pháp lý và chính sách hỗ trợ vốn khiến HTX, THT gặp khó trong việc hoàn thiện hồ sơ, tiếp cận các chương trình hỗ trợ của Nhà nước. Thực trạng này đã và đang kìm hãm khả năng mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả sản xuất của khu vực kinh tế tập thể trong nông nghiệp.
![]() |
| Mô hình sản xuất rau hữu cơ ở HTX Nông sản hữu cơ Kiên Giang (tỉnh An Giang). Ảnh Vũ Sinh |
Giải pháp hỗ trợ vốn cho HTX, THT phát triển nông nghiệp bền vững
Mặc dù hệ thống chính sách hỗ trợ vốn đã được ban hành tương đối đầy đủ, song để các HTX, THT thực sự tiếp cận và sử dụng hiệu quả nguồn vốn, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp mang tính căn cơ.
Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng phù hợp với đặc thù của HTX, THT nông nghiệp. Các tổ chức tín dụng cần đa dạng hóa hình thức cho vay, tăng cường cho vay dựa trên phương án sản xuất – kinh doanh, hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm, thay vì quá phụ thuộc vào tài sản thế chấp. Đối với nông nghiệp hữu cơ, cần có các gói tín dụng trung và dài hạn với thời gian ân hạn phù hợp với chu kỳ sản xuất.
Thứ hai, cần nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX. Việc tăng quy mô vốn, mở rộng phạm vi hỗ trợ, đơn giản hóa thủ tục vay vốn sẽ giúp HTX, THT tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn. Đồng thời, cần tăng cường sự phối hợp giữa quỹ và các tổ chức tín dụng để tạo nguồn vốn đồng hành, chia sẻ rủi ro trong đầu tư cho nông nghiệp hữu cơ.
Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị, đặc biệt là quản trị tài chính cho HTX, THT, cần được xem là giải pháp then chốt. Thông qua các chương trình đào tạo, tư vấn, HTX, THT cần được hỗ trợ xây dựng phương án sản xuất – kinh doanh khả thi, minh bạch hóa hoạt động tài chính, đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, việc thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị giữa HTX, THT với doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các hợp đồng bao tiêu sản phẩm ổn định không chỉ giảm thiểu rủi ro thị trường mà còn tạo cơ sở vững chắc để HTX, THT tiếp cận tín dụng.
Cuối cùng, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý HTX, THT và tiếp cận vốn. Việc số hóa quy trình sản xuất, quản trị tài chính và truy xuất nguồn gốc sản phẩm sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch, tạo niềm tin cho các tổ chức tín dụng và nhà đầu tư.
Việc hỗ trợ vốn cho HTX, THT không chỉ là giải pháp tháo gỡ khó khăn trước mắt mà còn là đầu tư cho sự phát triển lâu dài của nông nghiệp bền vững. Khi được tiếp cận nguồn vốn phù hợp và sử dụng hiệu quả, HTX, THT sẽ phát huy tốt vai trò tổ chức sản xuất, thúc đẩy phát triển nông nghiệp hữu cơ, nâng cao thu nhập cho nông dân và đóng góp tích cực vào quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng xanh, hiệu quả và bền vững.