Bảo vệ rừng là nhiệm vụ then chốt để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu đạt Net Zero vào năm 2050 - Ảnh minh họa. |
Mất rừng, suy thoái rừng tự nhiên và quản lý rừng sản xuất chưa hiệu quả là nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm tài nguyên thiên nhiên, đồng thời làm gia tăng phát thải khí nhà kính.
Bảo vệ rừng là nhiệm vụ then chốt để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu đạt Net Zero vào năm 2050. Việt Nam đặt mục tiêu duy trì tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc ổn định từ 42% đến 43%, mỗi năm trồng thêm khoảng 238.000 hecta rừng và tìm cách phục hồi rừng tự nhiên để chống biến đổi khí hậu.
Chia sẻ tại hội thảo “Phát huy giá trị nguồn lợi từ rừng gắn với mục tiêu Net-Zero và phát triển bền vững”, bà Nghiêm Phương Thúy đại diện Cục Lâm nghiệp – Bộ Nông nghiệp Phát triển và Nông thôn cho biết, thời gian qua Cục đã thực hiện nhiều chương trình kế hoạch như: Đề án 1 tỷ cây xanh, Đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu, Đề án quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, Đề án phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng, Đề án nâng cao chất lượng rừng nhằm bảo tồn hệ sinh thái rừng và phòng, chống thiên tai.
Tất cả những chủ trương chính sách của ngành này liên quan đến tín chỉ các-bon rừng như: Chiến lược phát triển ngành lâm nghiệp, Quy hoạch Lâm nghiệp quốc gia, Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững, Kế hoạch quốc gia triển khai Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất, Kế hoạch phát triển rừng trồng gỗ lớn… cũng nhằm đáp ứng cho việc phát triển bảo vệ rừng, thúc đẩy cung ứng trao đổi tín chỉ carbon từ rừng.
Nhận định về thị trường tín chỉ carbon hiện nay, bà Nghiêm Phương Thúy cho rằng thị trường tự nguyện quốc tế và một số thị trường bắt buộc của một số quốc gia cũng như vùng lãnh thổ đang vô cùng sôi động.
Mục tiêu của Việt Nam là duy trì tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc ổn định từ 42% đến 43%, mỗi năm trồng thêm khoảng 238.000ha rừng và tìm cách phục hồi rừng tự nhiên để chống biến đổi khí hậu - Ảnh minh họa. |
Thông tin về việc triển khai trao đổi tín chỉ carbon rừng của Việt Nam hiện nay, đại diện Cục lâm nghiệp cho biết Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang thực hiện trao đổi 2 Chương trình dự án Carbon lâm nghiệp trên thị trường tự nguyện.
Chương trình thứ nhất là Chương trình giảm phát thải 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ (ERP), áp dụng tiêu chuẩn carbon của quỹ Đối tác carbon trong lâm nghiệp gọi tắt là FCPF.
“Để được Quỹ FCPF cấp 16,21 triệu tín chỉ - là kết quả giảm phát thải của 2018-2019, chúng tôi phải xây dựng báo cáo giám sát kết quả, kết quả này được tín chỉ hóa tức là đã trở thành tín chỉ carbon rừng của 6 tỉnh Bắc Trung Bộ. Chúng tôi đã chuyển nhượng cho WB và Quỹ FCPF tín chỉ carbon chứ không phải kết quả giảm phát thải. Hiện nay chúng tôi đã chuyển nhượng được 10,3 triệu tấn CO2, là toàn bộ lượng tín chỉ theo con số chính thức”.
Còn lại hiện Việt Nam dư thừa hơn 6 triệu tấn CO2 và World Bank đang đề xuất mua hơn 1 triệu tấn nữa. Bộ Nông nghiệp Phát triển & Nông thôn đang hoàn thiện thủ tục để xin chuyển nhượng bổ sung hơn 1 triệu tín chỉ carbon này.
Chương trình thứ 2 mà Bộ Nông nghiệp Phát triển & Nông thôn đang được giao chủ trì xây dựng, là ký với tổ chức LEAF/Emergent nghị định thư triển khai xây dựng và đàm phán Thỏa thuận giảm phát thải vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ cho 11 tỉnh của vùng. Dự kiến phía LEAF/Emergent sẽ mua tối thiểu khoảng 5,15 triệu tấn tín chỉ carbon rừng với giá từ 10$/tấn CO2.
Các công ty báo cáo việc sử dụng tín chỉ carbon ra sao? |
Cách xác định giá trị của tín chỉ carbon |
Các tổ chức quốc tế nào đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý tín chỉ carbon? |
Bà Thúy cho biết, hiện Cục đã trình hồ sơ đăng ký cấp tín chỉ, trong hồ sơ dự kiến trong 2 năm 2021-2022, 11 tỉnh này sẽ tạo ra khoảng 8 triệu tín chỉ CO2 để chuyển nhượng cho LEAF/Emergent. Chương trình này không áp dụng chuẩn FCPF mà áp dụng tiêu chuẩn TREE của nền tảng giao dịch REDD+.
“Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, do FCPF và LEAF/Emergent có tiêu chuẩn khá ngặt nghèo nên hiện không có tín chỉ nào đến từ rừng trồng nên những tín chỉ Chương trình đang triển khai chủ yếu đến từ từng tự nhiên.
Đúc kết từ thực tế triển khai 2 Chương trình, đại diện Cục Lâm nghiệp đã chỉ ra một số thuận lợi như sau:
Thứ nhất, nhiều chủ trương của Đảng, các chính sách, chiến lược, nghị định hướng dẫn của Chính phủ, các bộ ngành, cũng như chiến lược Quốc gia, chương trình phát triển của ngành nông nghiệp đã được ban hành nhằm thúc đẩy phát triển rừng để tăng khả năng hấp thụ cũng như ngăn ngừa, giảm phát thải.
Thứ 2 là chương trình này có khá nhiều thuận lợi, đó là chúng ta đã có sự chuẩn bị, hiện nay khung chính sách thị trường tín chỉ carbon trong nước đang được xây dựng hình thành.
Thuận lợi thứ 3 là ngành Nông nghiệp đã có quy định hướng dẫn riêng về giảm phát thải, giảm khí nhà kính, đo đạc giảm nhẹ trong lĩnh lâm nghiệp để làm cơ sở báo cáo kết quả của ngành về những đóng góp vào NDC.
Thứ 4 là nhu cầu bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế là có thật. Có nhiều nhiều nhà đầu tư quan tâm đến hỗ trợ phát triển tín chỉ rừng, đặc biệt là trong những năm gần đây nhu cầu bù trừ tín chỉ trong nước tăng rất mạnh với những thỏa thuận sáng kiến mới của Quốc tế như sáng kiến về CBAM của EU và tới đây là Hoa Kỳ. Doanh nghiệp Việt Nam phải chứng minh nỗ lực giảm phát thải nếu muốn xuất khẩu hàng hóa vào thị trường này.
“Nhu cầu tín chỉ carbon sẽ tăng mạnh trong thời gian tới cả trong nước và quốc tế. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã tiếp cận chúng tôi với mong muốn mua các tín chỉ carbon rừng để bù trừ vào phần phát thải”, bà Nghiêm Phương Thúy nhận định.
Khẳng định tiềm năng về tín chỉ carbon rừng của Việt Nam vô cùng lớn, Bà Thúy cho hay “hiện chúng tôi đang có hơn 8 triệu ha rừng và thời gian tới sẽ mở rộng thị trường tín chỉ carbon ra đối tượng này”.