Tổ dân phố Na Lun có 187 hộ, trong đó có 1 chủ rừng là cộng đồng và 64 chủ rừng là hộ gia đình. Bắt đầu từ năm 2012, bản được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng.Từ đó đến nay, diện tích, chất lượng rừng liên tục được tăng lên, hiện nay ở bản không còn đất trống, đồi trọc, theo đó, số tiền dịch vụ môi trường rừng được chi trả cũng tăng lên theo từng năm. Hơn 10 năm qua, trung bình mỗi năm, cộng đồng bản được chi trả từ 300-400 triệu đồng tiền dịch vụ môi trường rừng. Việc sử dụng đều họp dân công khai và đưa vào hương ước, quy ước của bản, gắn với công tác bảo vệ rừng và xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, từ năm 2018 đến nay, sau khi quy chế quản lý bảo vệ rừng, quản lý sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng của tổ dân phố được phê duyệt, việc sử dụng thường xuyên có sự kiểm tra, giám sát của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng và chính quyền địa phương.
![]() |
Nhà văn hóa Tổ dân phố Na Lun (Trước kia là bản Lùn, xã Mường Sang) phường Mộc Châu, tỉnh Sơn La được xây dựng nhờ 1 phần nguồn vốn tiền dịch vụ môi trường rừng |
Điểm nổi bật trong việc sử dụng hiệu quả tiền dịch vụ môi trường rừng ở Na Lun là năm 2022, Na Lun đã góp 360 triệu đồng cùng với số tiền hỗ trợ của nhà nước để xây dựng được 1 nhà văn hóa quy mô, kiên cố với đầy đủ thiết bị phục vụ sinh hoạt cộng đồng. Bước sang năm 2023 Tổ dân phố Na Lun tiếp tục sử dụng nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng để đầu tư cây cầu dân sinh qua suối ra khu sản xuất và nối với quốc lộ 37. Trước đây chỉ xe máy đi được đã được khởi công xây dựng thành cầu bê tông, với tổng mức đầu tư 2,3 tỷ đồng; trong đó, nhà nước hỗ trợ 2 tỷ đồng, bản trích từ nguồn dịch vụ môi trường rừng 260 triệu đồng.
![]() | ||
Cây cầu dân sinh được đầu tư rộng rãi, kiên cố giúp nhân dân trong vùng đi lại thuận tiện.
|
Bên cạnh đó, mỗi năm Tổ dân phố Na Lun chi hàng trăm triệu đồng xây dựng, tu sửa hệ thống đường nội bản, liên bản, công trình thủy lợi phục vụ sản xuất. Đến nay, toàn bộ các tuyến đường nội bản đã được bê tông hóa; 3,2 km đường nội đồng được đổ bê tông và rải cấp phối, hệ thống kênh mương nội đồng được kiên cố, bảo đảm nước tưới phục vụ sản xuất; bản đã lắp đặt gần 2 km đường điện chiếu sáng, tổng kinh phí gần 85 triệu đồng đều trích từ tiền được chi trả dịch vụ MTR. Đặc biệt, trên địa bàn vừa có doanh nghiệp liên doanh với Hàn Quốc triển khai dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, quy mô 1,5 ha trồng dâu tây, rau sạch trong nhà kính. Doanh nghiệp vừa tổ chức tập huấn kỹ thuật, tạo điều kiện cho bà con tham gia sản xuất và giúp bản khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Bên cạnh đó, Na Lun đã thành lập nhóm phụ nữ tiết kiệm và dành 70 triệu đồng từ nguồn dịch vụ môi trường rừng để cho các thành viên vay phát triển kinh tế.
![]() |
Các cạn bộ Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Sơn La đang trao đổi với cộng đồng và các thành viên Tổ bảo vệ rừng ở Na Lun |
Ông Vì Văn Hạnh ( Tổ trưởng Tổ dân phố Na Lun) chia sẻ: “Người dân nơi đây đều nhất trí cao và đồng thuận với các phương án sử dụng nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng. Từ khi có nguồn tiền này đã góp phần để nhân dân chung tay xây dựng nông thôn mới. Diện mạo và đời sống của nhân dân có những đổi thay tích cực. Không còn tình trạng chặt phá hay xâm lấn rừng. Từ khi có chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, bà con phấn khởi thực hiện tốt công tác quản lý bảo vệ rừng. Đặc biệt là tích cực tham gia trồng rừng sản xuất. Hiện nay Na Lun đã trồng được gần chục héc ta cây gỗ tếch mà nguồn vốn cây giống cũng từ tiền dịch vụ môi trường rừng”.
![]() |
Đi thăm các công trình mà cộng đồng Tổ dân phố Na Lun đã triển khai xây dựng trong những năm qua, trong đó 1 phần từ nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng. |
Cùng với việc đầu tư cho các công trình công cộng, nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng còn dành để đầu tư cho công tác bảo vệ rừng. Tổ Quản lý bảo vệ rừng ở Na Lun có 25 thành viên được trang bị đầy đủ dụng cụ, phương tiện phục vụ bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng. Mỗi thành viên được trả thù lao 150.000 đồng cho một lần tuần tra. Anh Quàng Văn Phong là thành viên của Tổ Quản lý Bảo vệ rừng ở Na Lun cho biết: “Các thành viên trong tổ được trang bị khác đầy đủ. Mỗi tháng Tổ đi tuần tra rừng ít nhất một lần. Đồng thời kết hợp với việc đi làm nương dẫy thì cũng theo dõi rừng luôn. Mặc dùng số tiền thù lao không cao nhưng các thành viên trong tổ đều cảm thấy thoải mái và ai cũng đồng lòng với quy chế sử dụng nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng”.
![]() |
Diện mạo Tổ dân phố Na Lun đã đổi thay tích cực, |
Bà Ngô Thị Thu Thành (Trưởng chi nhánh khu vực 3- Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Sơn La) cho biết: “Qua quá trình kiểm tra việc quản lý sử dụng nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng của tổ dân phố Na Lun trong những năm qua chúng tôi thấy họ sử dụng rất hiệu quả, đúng mục đích. Họ chủ yếu dành nguồn tiền xây dựng các công trình phúc lợi và chi phí cho các hoạt động bảo vệ, phòng cháy chữa cháy rừng. Thậm chí còn đầu tư để trồng rừng. Từ năm 2013 đến cộng đồng Tổ dân phố Na Lun luôn là điểm sáng trong công tác sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng”.
![]() |
Nhiều diện tích cây gỗ tếch đang được bà con Na Lun trồng với mục đích vừa có thêm thu nhập, vừa tăng độ che phủ những khu đất trống, đồi trọc. |
Tỉnh Sơn La có gần 700.000 ha rừng và đất quy hoạch cho lâm nghiệp, chiếm 49,24% diện tích tự nhiên của tỉnh. Trong đó, hơn 350.000 ha rừng được giao cho trên 2.000 cộng đồng, tổ chức đoàn thể của các bản quản lý, hằng năm được chi trả từ 90-130 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng, chiếm trên 50% tổng số tiền dịch vụ môi trường rừng của toàn tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh có 1.073 cộng đồng bản là chủ rừng đã xây dựng quy chế sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng. Theo quy chế, hằng năm dựa trên tổng số tiền được chi trả, các cộng đồng bản sẽ trích 25% phục vụ công tác tuần tra, bảo vệ, chữa cháy rừng, mua cây giống trồng rừng, trồng cây phân tán, mua sắm công cụ, dụng cụ, trang thiết bị phục vụ quản lý, bảo vệ rừng. Trích 38% đầu tư xây dựng, sửa chữa nhà văn hóa, đường nội bản, công trình thủy lợi, nhà lớp học; mua sắm các trang thiết bị phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao. 17% hỗ trợ sản xuất, nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình và trích 20% thực hiện công tác tuyên truyền, khen thưởng. Cũng chính từ nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng, đã góp phần xây dựng nông thôn mới, thay đổi tích cực diện mạo của các thôn bản vùng cao.