Ảnh minh họa. |
Năm Tân Tỵ (381), Thái thú Giao Châu là Đỗ Viện chém được Lý Tốn, trong xứ Giao Chỉ lại được yên. Đỗ Viện được thăng làm thứ sử Giao Châu. (Đỗ Viện là người Châu Diên, xứ Giao Chỉ. Sách Giao Chỉ chí chép nhân vật Đỗ Viện vào mục nhân vật nước ta, xếp sau Sĩ Nhiếp).
Năm Kỉ Tỵ (549), Triệu Việt Vương ở căn cứ đầm Dạ Trạch, bị quân Lương bao vây. Mãi mà vẫn không thấy lui quân, mới đốt hương cầu đảo, khẩn thiết kinh cáo với trời đất thần kỳ, thế rồi có điềm lành được mũ đâu mâu móng rồng dùng để đánh giặc. Từ đó khí thế quân lừng lẫy, đến đâu không ai địch nỗi (tục truyền rằng thần nhân trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ cưỡi rồng vàng từ trên trời xuống, rút móng rồng trao cho vua, bảo gài lên mũ đâu mâu mà đánh giặc).
Năm Ất Tỵ (945), Khi Ngô Quyền mất, uỷ thác con trưởng Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha. Nhưng Kha không lại phế cháu (cháu gọi bằng cậu), tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình Vương. Ngô Xương Ngập chạy về nhà một hào trưởng Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương - Nam Sách (Hải Dương). Phạm Lệnh Công che chở cho Ngô Xương Ngập, đã ba lần đưa Ngô Xương Ngập vào rừng núi Hun Sơn đào mà trú ẩn.
Năm Kỉ Tỵ (969), Đinh Tiên Hoàng phong cho con trưởng Đinh Liễn, chức Nam Việt Vương; khẳng định uy quyền hoàng đế của một quốc gia độc lập. Năm Tân Tỵ (981), Sau khi nhà Tiền Lê của nước Đại Cồ Việt được thành lập, Tống không ngừng đe dọa xâm lược, bắt phải thuần phục.C uối năm 980, Tống chia quân làm nhiều mũi tiến đánh.
Đầu năm 981, sau một thời gian tổ chức kháng chiến, quân dân Đại Cồ Việt dưới sự chỉ huy của Lê Hoàn, phá tan được thủy quân giặc, do Lưu Trừng cầm đầu ở sông Bạch Đằng, đánh thắng lớn ở Bình Lỗ (vùng huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội), giết chết tướng giặc là Hầu Nhân Bảo, phá tan giặc ở Tây Kết (vùng Hiệp Hòa, Việt Yên, Bắc Giang), đuổi Trần Khâm Tộ chạy dài, bắt sống tướng giặc là Triệu Phục Hưng và Quách Quân Biện đem về giam tại Hoa Lư. Quân Tống bị đại bại, nhà Tống ra lệnh bãi binh. Quân dân Đại Cồ Việt giành thắng lợi rực rỡ. Năm Quí Tỵ (993), Nhà Tống sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản đem sách thư sang phong Lê Hoàn làm Giao Chỉ Quận Vương.
Năm Ất Tỵ (1005), Lê Hoàn mất, các hoàng tử tranh ngôi, đánh nhau 8 tháng, trong nước không có chủ. Tranh giành quyền hành xảy ra giữa thái tử Long Việt và hoàng tử thứ hai Đông Thành vương Lê Ngân Tích (Long Ngân), là người lớn nhất trong số các anh em còn lại. Tháng 10 năm 1005, Long Ngân thua chạy đến châu Thạch Hà (Hà Tĩnh) thì bị người bản địa giết chết, cục diện kết thúc.
Năm Đinh Tỵ (1017), Lý Thái Tổ xuống chiếu xá tô ruộng cho thiên hạ. Năm Kỉ Tỵ (1029), Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Châu Lạng, là Thân Thiệu Thái, để thiết đặt mối ban giao. Năm Tân Tỵ (1041), Lý Thái Tổ đến thăm núi Tiên Du xem làm viện Từ Thị Thiên Phúc. Khi về, xuống chiếu phát 7.560 cân đồng trong kho để đúc tượng Phật Di Lặc và hai vị Bồ tát Hải Thanh và Công Đức cùng chuông để ở viện ấy.
Năm Định Tỵ (1077), Lý Nhân Tông, tổ chức thi tuyển chọn quan lại bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật. Năm Kỉ Tỵ (1089), Lý Nhân Tông, định các chức quan văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu Năm Kỉ Tỵ (1149), Mùa xuân tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa (Java - Inđônêxia), Lộ Lạc (?), Xiêm La (Thái Lan) xin cư trú buôn bán ở Đại Việt. Triều đình cho lập cơ sở ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hóa quý, sản vật địa phương.
Năm Tân Tỵ (1281), Nhà Trần cho lập nhà học ở phủ Thiên Trường, cấm người hương Thiên Thuộc không được vào học. (Lệ cũ nhà Trần, quân sĩ Thiên Thuộc không được học tập văn chương nghệ thuật vì sợ khí lực kém đi). Năm Ất Tỵ (1305), Vua Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và thuộc hạ hơn trăm người dâng vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn con vua Trần. Các quan trong triều đều cho là không nên, duy nhất chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới xong.
Năm Đinh Tỵ (1317), Mùa xuân, Lễ thành hôn của năm công chúa Trần: Thiên Chân, Ý Trinh, Huy Chân, Huệ Chân, Thánh Chân;
Năm Quí Tỵ (1353), Vua Trần xuống chiếu cho các vương hầu đóng thuyền chiến, chế tạo vũ khí, luyện tập binh sĩ, chuẩn bị đánh Chiêm;
Năm Quí Tỵ (1413), Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị lại đem quân vượt biển đến Vân Đồn, Hải Đông và các bãi biển để thăm dò và lấy lương thực và đánh quân Minh đóng giữ ở những nơi ấy;
Năm Đinh Tỵ (1437), Nguyễn Trãi và lễ bộ ty giám Lương Đăng được vua Lê giao cho việc đốc suất làm loan giá, nhạc khí, dạy tập nhạc múa.
Năm Tân Tỵ (1461), Vua Lê ban hành sắc chỉ cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn, xã: “Từ nay về sau, trong việc làm ruộng, phải khuyến khích quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh nhai, để đủ ăn mặc, không được bỏ gốc theo ngọn hoặc kiếm chuyện buôn bán, làm trò du thủ, du thực. Người nào có ruộng đất mà không chăm cày cấy thì quan cai trị bắt trình trị tội”. Năm Quí Tỵ (1473), Lê Thánh Tông, ra sắc chỉ: “Kể từ này, trong nhà không làm cỗ thết khách thì không được chè chén, người vợ không phạm tội thì không được ruồng bỏ. Kẻ nào dám rượu chè bừa bãi, gia đạo không nghiêm, kẻ nào không có mối lái mà dám vụng trộm tư thông thì phải trị tội”.
Năm Ất Tỵ (1485), Trước đó, xứ Quảng Nam không có thuyền, hằng năm quân dân đi nộp thuế hiện vật khiêng gánh thường bị mất mát. Kể từ năm này, nhằm khỏi mất công cho dân nhà nước cho phép đến ký nộp trực tiếp cho thừa ty Quảng Nam, để họ chuyển giao lại cho ba ty Đô, Thừa, Hiến Thuận Hóa, chuyển đệ nộp lên trên. Năm Đinh Tỵ (1497), Cấm các lại viên thay phiên ở nha môn và xá nhận trực ngoài, nếu không phải là phiên trực thì không được viện cớ tự tiện ở lại nha môn để làm bậy.
Năm Tân Tỵ (1521), Triều đình cho dựng bia tiến sĩ năm Giáp Tuất, sai thiếu bảo Lại bộ thương thư Đông các đại học sĩ nhập thị kinh diên Vũ Duệ soạn bài ký, Trung thư giám điển thư Chu Đình Bảo viết chữ chân, Kim quang môn đãi chiếu, Phạm Đức Mạo viết chữ triện. Năm Quí Tỵ (1533), Triều Lê bỏ việc tiến công cho nhà Minh, lấy lý do Mặc Đăng Dung làm loạn chiếm kinh thành.
Năm Ất Tỵ (1545), Từ năm 1533, Nam triều được dựng lên, Nam triều là triều của vua Lê nhưng tất cả quyền hành lại nằm trong tay Nguyễn Kim. Tháng năm 1945 Nguyễn Kim bị một hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc. Từ đây quyền hành nằm hết vào trong tay con rễ Trịnh Kiểm, cục diện vua Lê - chúa Trịnh xuất hiện.
Năm Kỉ Tỵ (1569), Vua Lê gia phong cho Trịnh Kiểm làm Thượng tướng Thái quốc công và tôn là Thượng phụ. Cũng trong năm đó Trịnh Kiểm ốm nặng, dâng biểu xin trao lại binh quyền cho vua Lê. Vua Lê sai con trưởng của Trịnh Kiểm là Cối nắm lĩnh binh quyền, trong khi đó Trịnh Tùng là người có công nhiều lại không được trọng dụng. Sự tranh giành quyền lực của hai anh em họ Trịnh nảy sinh, kết quả Trịnh Tùng lật được Trịnh Cối.
Năm Tân Tỵ (1581), Trịnh Tùng đánh bại sự xâm lấn của Mạc Đôn Nhượng, làm cho quân Mạc phải sợ, cư dân Thanh Hoa, Nghệ An mới được yên nghiệp.
Năm Quí Tỵ (1593), Trịnh Tùng tiến đánh tàn dư của họ Mạc, làm cho thế lực họ Mạc càng suy yếu, quân Mạc chỉ còn lại ở một số nơi: Mạc Kính Dụng ở Thái Nguyên; Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan ở Lạng Sơn. Đến đây, vai trò họ Mạc đã cáo chung trong lịch sử.
Năm Kỉ Tỵ (1629), Một trận đói lớn, dưới thời Lê Thần Tông - Lê mạt, năm Vĩnh Tộ thứ 11.
Năm Tân Tỵ (1641), Trong Nam dưới đời chúa Thượng, ngoài Bắc dưới đời Cảnh Hưng, đã nổi lên nhiều phong trào giam cầm bắt bớ và giết hại các tín đồ Thiên chúa. Các giáo sĩ bị hại ở Bắc Hà nhiều hơn vì vua Lê, chúa Trịnh gần như thất bại trong việc kêu gọi người Tây phương đến giúp mình. Một căn nguyên khác không kém phần quan trọng trong việc bài đạo là chỗ đạo Thiên Chúa bị hiểu lầm là một tà đạo, nghịch với thuần phong mỹ tục bản địa. Chính quyền cho kẻ theo đạo là những kẻ đi ngược với luân thường, bỏ rơi tổ tiên, khinh mạn vua quan.
Năm Quí Tỵ (1653), Triều đình chúa Nguyễn định kiểu y phục trong nước, dài rộng theo thứ bậc khác nhau. Quan văn từ chức khoa, đạo; quan võ từ chức quận công được mặc áo thanh cát, có lá phủ đằng sau.
Năm Ất Tỵ (1665), Chúa Nguyễn có lệnh chỉ cho các ty xét kiện trong ngoài rằng: “Nếu xét kiện có xử án người nào thì kê rõ từng loại tâu lên, tội đến xử tử thì giao xuống xét lại rồi mới thi hành. Tội chặt chân, phạt trượng thì được tùy tiện thi hành, không được để án đọng lại”.
Năm Ất Tỵ (1785), Sau cuộc bại trận tháng tư năm 1785, tại Mỹ Tho cùng với quân Xiêm, Nguyễn Ánh chạy qua Vọng Các nương nhờ Quốc vương xứ này sau bao nhiêu phen đào vong qua các đảo Phú Quốc, Côn Lôn, Cổ Cốt, Panjang. Rồi Nguyễn Ánh gặp Giám mục Bá Đa Lộc cũng đi tị nạn tại một hòn đảo gần vịnh Komponsom. Giám mục bàn với Nguyễn vương nên cầu viện nước Pháp. Bấy giờ người Anh, người Hòa Lan, người Bồ Đào Nha cũng có ý giúp Nguyễn Vương, nhưng chúa Nguyễn Ánh đã theo lời Bá Đa Lộc.
Năm Tân Tỵ (1821), Minh Mạng kế nghiệp Gia Long, thì sự liên lạc Việt - Pháp thay đổi hẳn. Trong thời vua Gia Long, người Pháp ở lại làm quan với triều Nguyễn có Philippe Vannier, Jean Baptiste Chaigneau, De Forsans và y sĩ Despiau. Những người này đã được nhà vua phong tước rất trọng hậu (trừ Despiau). Nhà vua miễn cho họ khỏi phải lạy khi vào chầu mà chỉ phải khấu đầu 5 lần. Mỗi người được 50 tên lính phục vụ tại tư dinh. Sau vua Gia Long qua đời thì những người Pháp trên đây bỏ về hết vì sự ghen ghét của các quan Việt Nam và sự ghẻ lạnh của vua Minh Mạng. Kể từ giai đoạn này trở đi cuộc giao tiếp giữa Nguyễn triều với nước Pháp bắt đầu nổi sóng gió.
Năm Quí Tỵ (1833), Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh, đặt chức Bình Phú Tổng đốc thống hạt của tỉnh Phú Yên. Phủ An Nhơn có hai huyện: Tuy Viễn và Tuy Phước; Phù Ly chia ra thành hai huyện: Phù Cát và Phù Mỹ.
Năm Ất Tỵ (1845), Cuối năm 1834 vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân qua đời không có con trai kế vị, quan phụ trách việc bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng liền đặt em gái Nặc Ông Chân là Ang Mey lên làm Quận Chúa gọi là Ngọc Vân Công Chúa. Việc này được sắp đặt vào đầu năm Ất Tỵ (1845) rồi Chân Lạp được đổi ra trấn Tây Thành chia làm 32 phủ và 2 huyện. Trông nôm việc quân dân xứ này trên có một Tham tán Đại thần, một Đề đốc, một Hiệp tán và dưới có bốn chánh, phó lãnh binh.
Năm Đinh Tỵ (1857), Hưởng ứng chính sách khai hoang của Nguyễn Tri Phương, Võ Duy Dương lên đường vào nam tìm đến đất Ba Giồng (Định Tường) chiêu dân lập ấp.
Năm Kỉ Tỵ (1869), Cùng một nhịp với vụ phản nghịch ở kinh thành, nhiều vụ loạn khác cũng nổi lên làm cho triều đình của vua Tự Đức thêm rối. Các tướng được triều đình cử đi, đều không hoàn thành được tốt nhiệm vụ. Sau đó, Vũ Trọng Bình được cử ra làm Tổng đốc Hà Ninh, thay thế cho các bại tướng kể trên, mới dẹp yên được phiếm loạn.
Năm Ất Tỵ (1905), Phan Bội Châu họp các đồng chí ở sơn trang Nam Thịnh tại Quảng Nam lập ra "Việt Nam Quang Phục Hội" rồi cùng Tăng Bạt Hổ bí mật đi Nhật, giao thiệp với chính giới Nhật đưa Cường Để và một số thanh niên sang Đông Kinh.
Năm Đinh Tỵ (1917), Song song với phong trào Hậu văn thân từ 1917, nhiều cuộc bạo động vẫn xảy ra. Những người Tân học cũng thấy mình có nhiệm vụ nối chí tiền nhân và hưởng ứng với các nhà cách mạng hải ngoại, Lương Ngọc Quyến lãnh đạo khởi nghĩa Thái Nguyên là một điển hình./.