![]() |
Việc kiểm soát chặt chẽ dư lượng thuốc thú y, kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng là yếu tố sống còn để đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng và giữ vững uy tín của mật ong Việt Nam trên thị trường quốc tế |
Thông tư tập trung điều chỉnh các hoạt động nuôi ong, thu mua, sơ chế, chế biến mật ong phục vụ mục đích thương mại, bao gồm cả tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Điều này áp dụng cho mọi tổ chức, cá nhân tham gia vào chuỗi cung ứng mật ong và các cơ quan kiểm tra, giám sát liên quan.
Các thuật ngữ quan trọng như Mật ong thô (thu hoạch chưa qua sơ chế), Mật ong nguyên liệu (thô đã lọc tạp chất), và Mật ong thành phẩm (đã qua chế biến) được định nghĩa rõ ràng, tạo cơ sở thống nhất cho việc kiểm tra, giám sát, một trong những điểm mấu chốt được nhấn mạnh là sự phân cấp rõ ràng về trách nhiệm kiểm tra, giám sát.
Cục Chăn nuôi và Thú y (trước đây là Cục Thú y): Đảm nhận kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất mật ong phục vụ xuất khẩu hoặc hỗn hợp (xuất khẩu và tiêu dùng trong nước).
Sở Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn): Chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất mật ong không thuộc diện xuất khẩu.
Sự điều chỉnh cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về chăn nuôi và thú y theo Thông tư số 09/2025/TT-BNNMT đã củng cố vai trò của Cục Chăn nuôi và Thú y và Sở Nông nghiệp và Môi trường trong việc triển khai Chương trình giám sát.
Chương trình giám sát hằng năm được xây dựng trên nhiều căn cứ, bao gồm danh sách các cơ sở chế biến mật ong đã được cấp Giấy chứng nhận, sản lượng năm trước, kết quả thử nghiệm mẫu trong 3 năm liền kề, và các thông tin cảnh báo về nguy cơ mất ATTP, Tuân thủ VSTY và ATTP tại cơ sở: Kiểm tra việc thực hiện cam kết đối với cơ sở nuôi ong, thu mua, và thẩm định, chứng nhận đối với cơ sở chế biến, giám sát dư lượng các chất độc hại (thuốc thú y, kháng sinh, hóa chất) trong mật ong và thức ăn nuôi ong là ưu tiên hàng đầu, số lượng mẫu được lấy ngẫu nhiên hoặc có chủ đích tại các cơ sở nuôi ong, thu mua, chế biến, tập trung vào thời điểm mùa vụ khai thác.
Thông tư quy định rõ ràng về các biện pháp xử lý khi phát hiện mẫu giám sát không đạt yêu cầu, cơ quan kiểm tra, giám sát phải thông báo ngay lập tức cho cơ quan quản lý và cơ sở về lô hàng/sản phẩm không đảm bảo, yêu cầu tạm dừng kinh doanh hoặc ngừng chế biến, cơ sở có mẫu vi phạm phải truy xuất nguồn gốc theo quy định để thu hồi và xử lý mật ong không an toàn. Cơ quan quản lý sẽ tổ chức thẩm tra và truy xuất toàn bộ chuỗi sản xuất nếu cần.
Cơ sở có mẫu vi phạm sẽ chịu giám sát tăng cường trong năm hiện tại và năm tiếp theo, phải chịu toàn bộ chi phí lấy mẫu và phân tích mẫu giám sát tăng cường bên cạnh đó có thể kiến nghị thu hồi các loại Giấy chứng nhận nếu cơ sở không tuân thủ các tiêu chí giám sát hoặc hệ thống quản lý chất lượng đã được công nhận.
Việc ban hành và triển khai Thông tư này thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc xây dựng một ngành nuôi ong bền vững, cung cấp sản phẩm mật ong chất lượng cao, an toàn cho cả thị trường trong nước và quốc tế. Quy định mới này hứa hẹn tạo ra những thay đổi tích cực trong việc quản lý chất lượng sản phẩm mật ong, góp phần bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và thúc đẩy xuất khẩu./.