Thứ bảy 11/10/2025 02:04Thứ bảy 11/10/2025 02:04 Hotline: 0326.050.977Hotline: 0326.050.977 Email: toasoan@tapchihuucovietnam.vnEmail: [email protected]

Tag

Cần xây dựng đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải

Tăng
aa
Giảm
Chia sẻ Facebook
Bình luận
In bài viết
Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh yêu cầu về việc phải có một Đề án tổng thể cho ngành trồng trọt về giảm phát thải.
Cần xây dựng đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải

Thứ trưởng Hoàng Trung làm việc với các đơn vị của Bộ Nông nghiệp và Môi trường về vấn đề giảm phát thải trong trồng trọt. Ảnh: Tùng Đinh.

Sáng 26/6, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung chủ trì buổi làm việc với Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật và các đơn vị liên quan thuộc Bộ về xây dựng Đề án sản xuất trồng trọt phát thải thấp trong giai đoạn 2025 – 2030.

Đề án này sẽ định hướng cho các đơn vị ở trung ương và các địa phương triển khai trong đó quy trình canh tác giảm phát thải và công cụ đo đếm là yếu tố quan trọng khi xây dựng đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải.

Định hình rõ mục tiêu của sản xuất trồng trọt giảm phát thải

Theo Thứ trưởng, sản xuất trồng trọt giảm phát thải nằm trong chủ trương chung của quốc gia về mục tiêu giảm phát thải ròng về 0 năm 2050. Tuy nhiên, với lĩnh vực này chỉ mới dừng lại ở một số dự án, chương trình nhỏ lẻ, chưa có tính căn cơ, bài bản.

“Chúng ta cần xây dựng một Đề án bài bản để có thể triển khai từ Bộ xuống các địa phương một cách thông suốt”, Thứ trưởng Hoàng Trung nêu vấn đề.

Theo ông, hiện nay, mới chỉ có chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL được phê duyệt và triển khai. Tuy nhiên, toàn quốc có đến hơn 7 triệu ha lúa và hơn 1 triệu ha cây ăn quả, nên Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cần xây dựng dự thảo sớm, thu thập ý kiến đóng góp để hoàn thiện nhằm triển khai trong thời giam sớm nhất.

Về chi tiết, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, vướng mắc hiện nay về giảm phát thải trong trồng trọt là chưa có khuôn khổ pháp lý, chưa có công cụ đo đếm và nhận thức của đại đa số người dân, doanh nghiệp, cán bộ địa phương về sản xuất trồng trọt giảm phát thải còn hạn chế.

Về quan điểm chỉ đạo, Thứ trưởng nhấn mạnh: “Sản xuất trồng trọt giảm phát thải cần hướng tới mục tiêu phục vụ các nghĩa vụ đối với NDC, thay đổi tập quán canh tác theo hướng giảm sử dụng vật tư đầu vào, bền vững và thân thiện với môi trường, xây dựng thương hiệu nông sản phát thải thấp để lan tỏa trách nhiệm của ngành trồng trọt với môi trường, với thế hệ mai sau”.

Về chuyên môn, Thứ trưởng Hoàng Trung yêu cầu Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật bổ sung nội dung nghiên cứu, xây dựng quy trình canh tác giảm phát thải phù hợp với từng loại cây trồng, vùng sinh thái qua đó xây dựng phương pháp MRV (đo đếm) chuẩn, được quốc tế công nhận với đầy đủ cơ sở khoa học. Từ đó, thể hiện bằng các văn bản pháp lý để triển khai đến từng địa phương làm căn cứ để tính toán được phát thải của từng khâu trong sản xuất.

“Nhiều đối tượng của ngành trồng trọt đặc biệt là các nhóm cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày còn có khả năng tự hấp thụ CO2 nên cần tính toán được chênh lệch giữa phát thải và hấp thu, tính toán được phát thải trong từng giai đoạn, từ đó đưa ra quy trình sản xuất phù hợp, hiệu quả”, ông Hoàng Trung nhấn mạnh.

Theo đó, thay đổi quy trình canh tác và giảm khối lượng vật tư đầu vào sẽ là chìa khóa để giảm phát thải trong trồng trọt. Về lộ trình, Thứ trưởng cho rằng nên tập trung vào một số cây trồng chính, đặc biệt là lúa, làm thật bài bản rồi mới mở rộng ra các đối tượng khác.

Cần xây dựng đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải

Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh vấn đề về công cụ đo và quy trình canh tác. Ảnh: Tùng Đinh.

Mục tiêu đến 2030 giảm 30% phát thải CH4

Tại buổi làm việc, bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đã trình bày về một số mục tiêu đang được dự thảo của đề án này.

Trong đó, phấn đấu đến năm 2030, giảm 30% tổng lượng phát thải khí CH4 và giảm ít nhất 10% tổng lượng phát thải khí nhà kính từ lĩnh vực trồng trọt so với năm cơ sở 2020, thông qua áp dụng các biện pháp kỹ thuật phù hợp với từng vùng sinh thái và nhóm cây trồng.

Đến năm 2030, diện tích áp dụng các biện pháp canh tác trồng trọt giảm phát thải đạt tối thiểu 2,5 triệu ha, ưu tiên tại các vùng sản xuất hàng hóa tập trung.

Hình thành cơ sở dữ liệu phát thải khí nhà kính trong trồng trọt theo cây trồng, vùng sinh thái và biện pháp kỹ thuật, góp phần hình thành thị trường carbon.

Xây dựng hệ thống tài liệu truyền thông, phổ biến kiến thức, thúc đẩy chuyển đổi hành vi sản xuất của nông dân theo hướng phát thải thấp. Tổ chức đào tạo, tập huấn về kỹ thuật, chính sách và công cụ đo phát thải cho cán bộ kỹ thuật, khuyến nông và nông dân trên toàn quốc.

Hiện nay, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đang tham khảo các ý kiến đóng góp liên quan đến đối tượng cây trồng áp dụng và lộ trình triển khai đề án.

Liên quan vấn đề này, GS.TS Nguyễn Hồng Sơn - Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) cho rằng, cần có đánh giá cụ thể với khả năng hấp thụ/phát thải của các đối tượng để có lựa chọn phù hợp.

Ví dụ như so sánh cây ngắn ngày với cây dài ngày, cây trồng nước với cây trồng cạn hay đánh giá theo tổng diện tích canh tác, khối lượng phân bón sử dụng…

Về quy trình canh tác, ông Nguyễn Hồng Sơn cho rằng mỗi biện pháp cần xem xét ứng dụng cho từng khu vực, cây trồng cụ thể, tránh áp dụng đồng loạt nhưng không hiệu quả: “Ví dụ tưới ướt khô xen kẽ thì áp dụng ở đâu?”.

Ngoài lãnh đạo Viện VAAS, các đại biểu tham gia buổi làm việc cũng có ý kiến liên quan đến việc tận dụng phế phụ phẩm trong nông nghiệp, sản xuất các loại than sinh học đơn giản, yêu cầu vừa phải.

Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống theo dõi, cập nhật, đánh giá hiệu quả cho từng vụ, từng năm để có thể đưa ra các chỉ đạo, điều chỉnh kịp thời.

Cần xây dựng đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải

Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật trình bày về dự thảo của đề án. Ảnh: Tùng Đinh.

Thay đổi nhận thức, nâng cao hiệu quả

Liên quan đến việc triển khai, Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh, cần làm rõ Việt Nam đã và đang sản xuất trồng trọt theo hướng giảm phát thải. Từ đó, đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân về chủ trương này.

“Tham gia sản xuất giảm phát thải không chỉ là đóng góp trách nhiệm của người dân với NDC Quốc gia mà còn góp phần xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam, giảm chi phí đầu vào giúp nâng cao hiệu quả kinh tế”, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẳng định.

Theo ông, khi cả cơ quan quản lý và người nông dân cùng thực hiện được mục tiêu giảm phát thải trong trồng trọt, chúng ta sẽ thu hút được nhiều sự quan tâm, tham gia, nguồn lực từ các tổ chức quốc tế.

Trong đó, đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC Quốc gia) là đóng góp do quốc gia cam kết về ứng phó với khí hậu, bao gồm mục tiêu thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, chính sách và biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận Paris.

Bài liên quan

Phân bón Bình Điền đẩy mạnh Dự án canh tác lúa giảm phát thải ở ĐBSCL

Phân bón Bình Điền đẩy mạnh Dự án canh tác lúa giảm phát thải ở ĐBSCL

Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đã có những bước tiến quan trọng trong việc triển khai dự án "Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu của Đồng bằng sông Cửu Long”.
Cơ giới hóa quản lý rơm rạ: "Những viên gạch" đầu tiên của nền nông nghiệp bền vững

Cơ giới hóa quản lý rơm rạ: "Những viên gạch" đầu tiên của nền nông nghiệp bền vững

Việc đốt rơm rạ hiện nay không chỉ lãng phí nguồn tài nguyên quý báu, mà còn làm gia tăng phát thải khí nhà kính, gây hại cho sức khỏe cộng đồng và làm suy thoái môi trường.
Canh tác lúa giảm phát thải: Hành trình nâng cao giá trị hạt gạo Việt

Canh tác lúa giảm phát thải: Hành trình nâng cao giá trị hạt gạo Việt

Dự án “Canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu của ĐBSCL” đem lại rất nhiều điều tích cực cho sản xuất và môi trường.
Nghệ An tăng cường chỉ đạo, sản xuất trồng trọt vụ Đông 2025

Nghệ An tăng cường chỉ đạo, sản xuất trồng trọt vụ Đông 2025

Để sản xuất trồng trọt vụ Đông 2025 đạt hiệu quả cao, UBND tỉnh Nghệ An yêu cầu các địa phương tăng cường mở rộng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao..., bảo đảm an toàn thực phẩm và phát triển bền vững.
Hiệu quả từ trồng lúa thích ứng với biến đổi khí hậu

Hiệu quả từ trồng lúa thích ứng với biến đổi khí hậu

Vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có An Giang chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt. Do đó, việc trồng lúa để thích ứng với biến đổi khí hậu là một trong những giải pháp quan trọng để bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống cho nông dân.
Hà Tĩnh: Trồng rau, nuôi gà thời đại công nghệ số

Hà Tĩnh: Trồng rau, nuôi gà thời đại công nghệ số

Tại Hà Tĩnh, nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân chủ động ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp, mang lại hiệu quả và chuyển biến tích cực trong sản xuất, kinh doanh.
Thủ tướng chỉ đạo quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường

Thủ tướng chỉ đạo quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 12/7/2025 về một số nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường.
Hải Dương: 6000 ha rau màu vụ hè thu đã được trồng

Hải Dương: 6000 ha rau màu vụ hè thu đã được trồng

Cùng với thu hoạch nốt lúa đông xuân, chuẩn bị sản xuất vụ mùa, nông dân Hải Dương đang tích cực mở rộng diện tích trồng rau màu vụ hè thu 2025.
Quảng Ninh: Phục hồi sản xuất trồng trọt năm 2025

Quảng Ninh: Phục hồi sản xuất trồng trọt năm 2025

Trong quý I năm 2025, tỉnh Quảng Ninh nỗ lực, quyết tâm triển khai thực hiện nhiệm vụ, sản xuất trồng trọt trên địa bàn toàn tỉnh nhanh chóng phục hồi với những tín hiệu tích cực.

CÁC TIN BÀI KHÁC

Tình yêu với cây chè và khát vọng đổi mới - Bài 3: Thách thức về duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm

Tình yêu với cây chè và khát vọng đổi mới - Bài 3: Thách thức về duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm

Những thách thức trong quá trình duy trì và phát triển thương hiệu Chè Hảo Đạt, sau khi đạt được những thành tựu đáng kể, là một phần tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp bền vững nào. Đặc biệt trong ngành chè, nơi cạnh tranh gay gắt và yêu cầu chất lượng ngày càng cao, việc giữ vững vị thế "OCOP 5 sao" đòi hỏi hợp tác xã Chè Hảo Đạt phải liên tục đổi mới và thích nghi.
Tình yêu với cây chè và khát vọng đổi mới - Bài 2: Đỉnh cao chất lượng, đạt chuẩn OCOP 5 sao

Tình yêu với cây chè và khát vọng đổi mới - Bài 2: Đỉnh cao chất lượng, đạt chuẩn OCOP 5 sao

Hợp tác xã Chè Hảo Đạt Thái Nguyên, tọa lạc tại vùng đất Tân Cương danh tiếng, đã vươn mình trở thành một trong những điển hình tiêu biểu của ngành chè Việt Nam nhờ những thành tích nổi bật và toàn diện. Từ một cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, hợp tác xã đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và khẳng định vị thế thương hiệu, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nâng tầm mô hình trồng quế hữu cơ

Nâng tầm mô hình trồng quế hữu cơ

Mô hình trồng quế hữu cơ đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao giá trị kinh tế và cải thiện đời sống người dân.
Phát triển nông nghiệp Hữu cơ: Hướng đi tất yếu cho tương lai

Phát triển nông nghiệp Hữu cơ: Hướng đi tất yếu cho tương lai

Trong khi biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, và dân số thế giới không ngừng gia tăng, việc phát triển nông nghiệp bền vững đã trở thành một yêu cầu cấp bách, không còn là lựa chọn mà là con đường tất yếu để đảm bảo an ninh lương thực, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống cho thế hệ hiện tại và tương lai.
Lý giải bản chất của Nông nghiệp công nghệ cao

Lý giải bản chất của Nông nghiệp công nghệ cao

Nông nghiệp công nghệ cao, hay còn gọi là nông nghiệp thông minh, nông nghiệp 4.0, hay nông nghiệp chính xác, là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất lương thực và thực phẩm, sử dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại để tối ưu hóa quy trình canh tác, chăn nuôi, và quản lý nông trại. Bản chất của nông nghiệp công nghệ cao không chỉ nằm ở việc áp dụng công nghệ mà còn ở sự thay đổi tư duy, từ phương pháp truyền thống dựa vào kinh nghiệm sang phương pháp dựa trên dữ liệu, hiệu quả, và bền vững.
Quan niệm sai lầm về kim loại nặng và dư lượng hóa chất sẽ "bay hơi" khi chế biến

Quan niệm sai lầm về kim loại nặng và dư lượng hóa chất sẽ "bay hơi" khi chế biến

Trong cuộc sống hàng ngày, không ít người vẫn còn giữ quan niệm rằng các chất độc hại như kim loại nặng và dư lượng hóa chất trong lương thực, thực phẩm sẽ tự động mất đi hoặc giảm thiểu đáng kể trong quá trình chế biến (nấu, luộc, chiên, xào, nướng...). Đây là một quan niệm cực kỳ sai lầm và tiềm ẩn nhiều rủi ro nghiêm trọng cho sức khỏe cộng đồng. Thực tế khoa học đã chứng minh rằng, dù một số loại hóa chất có thể bị phân hủy phần nào, nhưng phần lớn kim loại nặng và nhiều loại dư lượng hóa chất khác vẫn tồn tại, thậm chí còn tập trung cao hơn sau quá trình chế biến.
Phân hóa học: Lợi ích ngắn hạn và hậu quả lâu dài

Phân hóa học: Lợi ích ngắn hạn và hậu quả lâu dài

Khi dân số toàn cầu không ngừng tăng trưởng, nhu cầu lương thực ngày càng cấp thiết đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp hiện đại, trong đó phân bón hóa học đóng vai trò trung tâm. Được tổng hợp từ các nguyên tố vô cơ, phân hóa học (phân vô cơ) cung cấp trực tiếp các chất dinh dưỡng cần thiết như Đạm (N), Lân (P), Kali (K) cùng các vi lượng, giúp cây trồng phát triển nhanh chóng và cho năng suất cao vượt trội. Tuy nhiên, đằng sau những lợi ích tức thời và rõ rệt ấy, việc lạm dụng hoặc sử dụng không đúng cách phân hóa học đã và đang đặt ra những thách thức nghiêm trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến độ phì nhiêu bền vững của đất - nền tảng của mọi hoạt động nông nghiệp.
6 bước ủ phân hữu cơ từ phân chuồng

6 bước ủ phân hữu cơ từ phân chuồng

Sử dụng men vi sinh phối hợp với phụ phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi tạo thành nguồn phân hữu cơ hiệu quả là cách làm mà nhiều nông dân đang triển khai thực hiện.
Chứng nhận hữu cơ trong nông nghiệp: Nền tảng của lòng tin và sự phát triển bền vững

Chứng nhận hữu cơ trong nông nghiệp: Nền tảng của lòng tin và sự phát triển bền vững

Ngành nông nghiệp hữu cơ đã và đang chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc trên toàn cầu, không chỉ vì lợi ích về sức khỏe con người mà còn vì cam kết bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Tuy nhiên, để đảm bảo tính minh bạch và uy tín của các sản phẩm hữu cơ, vai trò của các tổ chức chứng nhận hữu cơ là không thể thiếu. Họ chính là những "người gác cổng" đáng tin cậy, xác minh rằng các trang trại và nhà sản xuất tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn hữu cơ đã được thiết lập.
Phát triển nông nghiệp bền vững nhờ trồng dừa hữu cơ

Phát triển nông nghiệp bền vững nhờ trồng dừa hữu cơ

Mô hình trồng dừa hữu cơ gắn với tiêu chuẩn xuất khẩu, nhiều nông hộ ở tỉnh Vĩnh Long đã thoát nghèo bền vững, vươn lên làm giàu.
Hành trình phát triển nông nghiệp hữu cơ - Kỳ 3: Những lợi ích khi tham gia chứng nhận PGS

Hành trình phát triển nông nghiệp hữu cơ - Kỳ 3: Những lợi ích khi tham gia chứng nhận PGS

Không chỉ cung cấp chứng nhận bảo đảm sự an toàn, được đánh giá bởi nhiều cá nhân và tổ chức liên quan trực tiếp đến việc giám sát, cam kết chất lượng sản phẩm khi cung cấp ra thị trường. Hệ thống PGS, còn mang lại nhiều giá trị lợi ích thiết thực cho các bên tham gia nhằm hỗ trợ mở rộng sản xuất và kết nối thị trường, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.
Đẩy mạnh phát triển cây dược liệu quý: Tiềm năng lớn dưới tán rừng tự nhiên

Đẩy mạnh phát triển cây dược liệu quý: Tiềm năng lớn dưới tán rừng tự nhiên

Trồng cây thảo dược quý dưới tán rừng tự nhiên đang là hướng đi mới, bền vững, tạo ra nhiều giá trị kinh tế cao trong những năm gần đây ở các khu vực miền núi. Việc trồng dược liệu dưới tán rừng tạo công ăn việc làm, phát triển kinh tế cho nhân dân mà còn giảm tải sự phụ thuộc vào rừng tự nhiên, giúp khai thác, bảo vệ hệ sinh thái rừng một cách bền vững.
XEM THÊM
Based on MasterCMS Ultimate Edition 2025 v2.9
Quay về đầu trang
Giao diện máy tính