Đào Tấn - Sinh năm Ất Tỵ 1845
Đào Tấn sinh năm Ất Tỵ 1845, mất năm Đinh Mùi 1907. Ông quê ở làng Vĩnh Thạnh, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Lúc nhỏ ông là học trò của cụ tú Nguyễn Diêu, tác giả của nhiều vở tuồng có tiếng. Chịu ảnh hưởng của thầy học nên ông đã tập viết tuồng từ thuở còn bé. Năm 22 tuổi, ông đậu cử nhân, 4 năm sau ông làm Hiệu thư ở Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh vua Tự Đức. Năm 1874, ông được bổ làm Tri phủ Quảng Trạch, sau thăng Thừa chỉ, Thị độc, rồi Phủ doãn tỉnh Thừa thiên. Khi vua Tự Đức mất (năm 1883), ông cáo quan về nhà, nhưng sau đó lại ra làm quan dưới triều Đồng Khánh. Năm 1889, ông được bổ làm Tổng đốc An - Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh), rồi lần lượt làm Thượng thư bộ Công, bộ Binh, bộ Hình.
Chân dung Đào Tấn. |
Vì mâu thuẫn với tên việt gian Nguyễn Thân, Thượng thư bộ Lại, một kẻ thân Pháp, ông xin về hưu khoảng năm 1902. Ông nổi tiếng thanh liêm, công minh, đuợc hầu hết sĩ phu trọng vọng, lại giỏi văn chương, thích soạn tuồng hát.Chính ông lập ra môn hát bộ ở Bình Định. Tại quê nhà có lập một trường dạy kịch nghệ gọi là Học bộ đình. Ông mất năm 1907, thọ 62 tuổi.
Nguyễn Bá Học - Sinh năm Đinh Tỵ 1857
Chân dung Nguyễn Bá Học. |
Nguyễn Bá Học là nhà văn, quê ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội). Ông theo đuổi nghiệp văn chương năm 1918 bằng việc viết truyện ngắn, chính luận và chọn dịch các bài Hán văn, Pháp văn đăng ở Tạp chí Nam Phong, Tạp chí Đông Dương. Ông được giới văn học đánh giá là một trong hai cây bút đầu tiên viết truyện ngắn hiện đại bằng Quốc ngữ trong văn học Việt Nam. Trong vòng ba năm (từ năm 1918 đến 1921), ông viết 7 truyện ngắn đăng trên Tạp chí Nam Phong. Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu nói: "Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Ông mất năm Đinh Mùi 1907.
Tống Hữu Định- Sinh năm Kỷ Tỵ 1869
Tống Hữu Định người "khai sơn phá thạch" nghệ thuật cải lương. |
Tống Hữu Định là người khởi xướng bộ môn ca kịch cải lương, hiệu Tịnh Trai, tục gọi là Thầy Phó Mười Hai (vì ông làm phó tổng và là người con thứ 12 trong gia đình); quê quán ở làng Long Châu, tỉnh Vĩnh Long. Ông nổi tiếng là người hào hoa, say mê âm nhạc dân tộc. Chính ông là người có sáng kiến khai sinh ra điệu hát "ca ra bộ" (năm 1914) - tiền thân của nghệ thuật hát cải lương sau này. Trong lịch sử bộ môn hát cải lương Nam bộ, các nhà nghiên cứu đã dành cho ông một chỗ đứng quan trọng trong sự hình thành và phát triển của bộ môn này. Ông mất năm Nhâm Thân 1932.
Nhà thơ Thâm Tâm - Sinh năm Đinh Tỵ 1917
Chân dung nhà thơ Thâm Tâm. |
Nhà thơ Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh năm Đinh Tỵ 1917 ở thị xã Hải Dương. Năm 1938, ông vẽ tranh và sáng tác văn học. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ, Phổ thông bán nguyệt san. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập Báo Tiên Phong (1945-1946); sau đó ông nhập ngũ, làm thư ký tòa soạn Báo Vệ quốc quân (sau là Báo Quân đội Nhân dân). Trong số các tác phẩm của ông, “Tống biệt hành” là một thi phẩm nổi tiếng với một phong cách thơ hòa hợp giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí yêu nước rất cao. Ông mất năm Canh Dần 1950
Nhà văn Nam Cao – Sinh năm Đinh Tỵ 1917
Chân dung nhà văn Nam Cao (trên bìa sách). |
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí, sinh năm Đinh Tỵ 1917, mất năm Tân Mão 1951 tại làng Đại Hoàng, Cao Đà, huyện Nam Song nay là xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, ông dạy học tư, sáng tác văn học, nổi tiếng với các truyện ngắn, tiểu thuyết xã hội. Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc, Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông tham gia hoạt động tích cực ở quê ông. Năm 1946 nhập đoàn quân Nam tiến vào miền nam Trung bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm công tác tuyên truyền, báo chí và văn nghệ ở Việt Bắc. Ngày 30/11/1951 ông hi sinh tại bốt Hoàng Đan, Gia Viễn, Ninh Bình trên đường đi công tác vào vùng địch. Các tác phẩm chính của ông đã được xuất bản: Chí phèo, Sống mòn, Đôi mắt, truyện ngắn Nam Cao,...
Lê Văn Thới - Sinh năm Đinh Tỵ 1917
Nhà khoa học Lê Văn Thới. |
Lê Văn Thới sinh năm Đinh Tỵ 1917, mất năm Quý Hợi 1983. Là một Giáo sư, quê ở Gò Dâu, Tây Ninh. Năm 1942, Lê Văn Thới đỗ cử nhân khoa Lí Hóa, rồi đỗ đầu kĩ sư hóa học (1943). Đến 1947 ông đỗ tiến sĩ quốc gia, hạng tối danh dự với lời ban khen của Hội đồng giám khảo. Từ 1947-1956 ông phụ trách nhiều đề tài Hóa học hữu cơ cơ cấu, là Trưởng ban khảo cứu cây thông của viện Đại học Bordeaux Pháp.
Từ 1956-1958, ông làm trưởng phòng khảo cứu sinh học tại Sở khai thác thuốc lá và diêm quẹt ở Paris và khảo cứu các chất gây ung thư của khói thuốc lá. Về nước từ năm 1958, ông giữ nhiều chức vụ trong ngành đại học và trong khảo cứu khoa học. Ông luôn theo dõi và nghiên cứu hóa học hiện đại, làm giáo sư tại trường Đại học khoa học Sài Gòn (nay là trường Đại học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh). Điều ông đặc biệt quan tâm là đặt nền móng tân tiến cho nền thuật ngữ Việt Nam, tiếp tục công trình mà Hoàng Xuân Hãn đã khởi sự.
Từ năm 1970, ông cùng các đồng nghiệp gây dựng nên ủy ban soạn thảo danh từ chuyên môn, đề ra nguyên tắc soạn thảo danh từ chuyên môn. Dù bận rộn đến đâu, ông cũng vẫn đến chủ trì buổi họp của ủy ban Danh từ vào mỗi sáng thứ 7 tại bộ Giáo dục Sài Gòn. Sau 1975, ông là chủ tịch Hội trí thức yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh, giáo sư Đại học Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1983 ông mất, thọ 66 tuổi. Giới khoa học, văn hóa và mọi người đều có tình cảm thân thiết đều thương tiếc ông./.