![]() |
| Cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp được xác định là một trong những giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2026. |
Từ kịch bản tăng trưởng đến khát vọng bứt phá
Trên cơ sở xây dựng các kịch bản tăng trưởng GRDP, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Phú Thọ đã chủ động định hướng, chỉ đạo cụ thể hóa kịp thời các chủ trương lớn của Trung ương, từng bước hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều “nút thắt” tồn tại lâu nay đã và đang được tháo gỡ.
Việc triển khai đồng bộ các luật quan trọng như Luật Quản lý thuế, Luật Quy hoạch, Luật Công nghệ cao, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Đầu tư, cùng một số chính sách đặc thù như Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP ngày 21/9/2025 của Chính phủ về cơ chế, chính sách đặc thù tháo gỡ vướng mắc trong triển khai Luật Địa chất và khoáng sản năm 2024… đã tạo ra những tác động tích cực, lan tỏa mạnh mẽ đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Cùng với đó, nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất – kinh doanh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Dự báo năm 2026, kinh tế thế giới sẽ dần phục hồi, hoạt động xuất khẩu và thị trường lao động có xu hướng mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi để khu vực công nghiệp trong nước gia tăng đơn hàng, nâng cao sản lượng.
Trong năm 2025, tỉnh đã có 75 dự án đầu tư đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Dự kiến trong năm 2026, trên địa bàn tỉnh sẽ có thêm hơn 79 dự án đã đăng ký đầu tư hoàn thành các thủ tục về xây dựng nhà xưởng, lắp đặt máy móc, tuyển dụng nhân lực, tìm kiếm thị trường và chính thức đi vào sản xuất.
Từ các dự báo trên, các dự án sản xuất công nghiệp sẽ đi vào hoạt động có thể tạo ra khoảng 111 nghìn tỷ đồng giá trị tăng thêm (theo giá so sánh năm 2010). Chỉ số sản xuất công nghiệp dự kiến tăng 18,7%, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng khoảng 16,5% so với năm 2025, góp phần vào tăng trưởng chung của tỉnh, tiếp tục giữ vai trò là động lực chủ lực của nền kinh tế Phú Thọ.
![]() |
| Phú Thọ đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa, ứng dụng khoa học – công nghệ, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. |
Đối với lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tỉnh tiếp tục hoàn thiện các chính sách phát triển phù hợp với điều kiện thực tiễn, đẩy mạnh cơ cấu lại sản xuất theo hướng nâng cao giá trị gia tăng. Sản xuất nông nghiệp được tổ chức theo chuỗi, hình thành các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn gắn với chế biến sâu với ccác cây trồng, vật nuôi chủ lực Bưởi (Đoan Hùng, Tân Lạc), chè (Tân Sơn, Thanh Sơn, Thanh Ba, Đoan Hùng), cam (Cao Phong, Lạc Thủy), chuối (Lương Sơn, Cao Phong, Lâm Thao, Hạ Hòa, Vĩnh Tường), thanh long ruột đỏ (Lập Thạch), hồng không hạt (hồng Gia Thanh, hồng Hạc Trì)… Các cây trồng, vật nuôi chủ lực như bưởi, chè, cam, chuối, thanh long ruột đỏ, hồng không hạt, lúa nếp đặc sản, mía, gia cầm, bò thịt, bò sữa, lợn thịt, cá lồng trên sông Đà, sông Lô, cùng các sản phẩm gỗ và lâm sản… tiếp tục được quan tâm phát triển theo lợi thế từng địa phương.
Phú Thọ đã chuyển mạnh từ xây dựng “chuỗi cung ứng nông sản” sang phát triển “chuỗi giá trị ngành hàng”, hỗ trợ hình thành chuỗi giá trị đối với các ngành hàng chủ lực, sản phẩm OCOP, sản phẩm hữu cơ, an toàn theo tiêu chuẩn (VietGAP, GlobalGAP). Đồng thời, tỉnh chú trọng xây dựng thương hiệu nông sản, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, phát triển kinh tế trang trại và kinh tế hộ theo hướng chuyên môn hóa, liên kết quy mô lớn. Một số dự án nông, lâm nghiệp trọng điểm đi vào hoạt động như khu nông nghiệp công nghệ cao kết hợp du lịch tại xã Mai Châu; mô hình nuôi lợn an toàn sinh học của HTX nông nghiệp hữu cơ Sơn Thủy; Nhà máy sản xuất gỗ Quang Vinh; Tổ hợp trang trại và nhà máy chế biến thịt bò Vinabeef Tam Đảo…
Dự kiến năm 2026, diện tích cây hàng năm đạt khoảng 304 nghìn ha; sản lượng lương thực có hạt đạt 1,142 triệu tấn; sản lượng chè búp tươi đạt 184,3 nghìn tấn; bưởi 181,5 nghìn tấn; cam 97,2 nghìn tấn; sản lượng thịt hơi các loại trên 486 nghìn tấn; thủy sản gần 87 nghìn tấn; gỗ khai thác 1,764 triệu m³; công nhận thêm 52 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên. Giá trị tăng thêm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt khoảng 23,9 nghìn tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 3,5% so với năm 2025, đóng góp khoảng 0,36 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung, tiếp tục là “trụ đỡ” quan trọng của nền kinh tế tỉnh. Còn đối với các ngành dịch vụ được dự báo duy trì ổn định và tăng trưởng khá, với nhiều dự án thương mại, dịch vụ, du lịch đã đăng ký đầu tư dự kiến đi vào hoạt động trong năm 2026.
![]() |
| Sản xuất công nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực chủ lực, đóng góp quan trọng vào mục tiêu tăng trưởng GRDP 11% của tỉnh Phú Thọ trong năm 2026. |
Quyết tâm bứt phá trong bối cảnh nhiều thách thức
Dù triển vọng tăng trưởng được đánh giá tích cực, song các kịch bản phát triển vẫn chịu tác động từ nhiều yếu tố khó lường. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn gia tăng; xung đột chính trị tại nhiều khu vực chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.
Trong nước, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ, thương mại, đầu tư của các nền kinh tế lớn, cùng các thách thức an ninh phi truyền thống như dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh mạng… tạo áp lực lớn lên công tác điều hành kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng.
Đối với Phú Thọ, quy mô kinh tế hiện ở mức tương đối cao, đứng thứ 6 cả nước, nên việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao là nhiệm vụ rất nặng nề. Độ mở nền kinh tế lớn, các dự án đầu tư mới cần thời gian “độ trễ” để hoàn thiện và đi vào sản xuất; cùng với những vướng mắc về thể chế, pháp luật và các điểm nghẽn kéo dài… đều tác động trực tiếp đến kết quả phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh đó, để đạt mục tiêu tăng trưởng theo phương án Chính phủ giao (trên 10%) và mục tiêu tỉnh phấn đấu (11%) trong năm 2026, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ với quyết tâm chính trị rất cao của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân trong tỉnh.
Đồng bộ giải pháp, tạo động lực tăng trưởng bền vững
Để hiện thực hóa mục tiêu đề ra, Phú Thọ xác định tập trung triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đột phá theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030. Trọng tâm là đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh theo tinh thần Nghị quyết số 66/NQ-CP của Chính phủ; xây dựng cơ chế “luồng xanh” trong giải quyết thủ tục đầu tư, tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư chiến lược.
Tỉnh ưu tiên nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; kịp thời cụ thể hóa các chủ trương của Trung ương bằng chương trình, kế hoạch cụ thể theo phương châm 6 rõ “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ tiến độ, rõ kết quả, rõ khen thưởng - kỷ luật”. Đồng thời, quyết liệt tháo gỡ các điểm nghẽn về giải phóng mặt bằng, tái định cư; khơi thông các nguồn lực cho phát triển.
Cùng với đó, tỉnh tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất đã được Trung ương ban hành, tạo đà phát triển kinh tế, nuôi dưỡng nguồn thu, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, phấn đấu năm 2026 kim ngạch xuất khẩu đạt 36,8 tỷ USD, nhập khẩu đạt 36 tỷ USD tăng 7,3% so với năm 2025, kim ngạch nhập khẩu đạt 36 tỷ USD, tăng 6,8% so với năm 2025.
Cùng với đó, việc cơ cấu lại các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại; phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; thúc đẩy thương mại điện tử, logistics; đẩy mạnh khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Về nông nghiệp, thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại sản xuất nông, lâm, thủy sản; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; chú trọng phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, các sản phẩm nông nghiệp có thế mạnh của địa phương như cây chè, cây có múi (bưởi, cam…), cây dược liệu, thủy sản (cá lồng…), lợn, bò, gia cầm. Phát triển các sản phẩm OCOP, nâng cao chất lượng chế biến và truy xuất nguồn gốc.
Đặc biệt, tiếp tục cụ thể hóa triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tại kế hoạch hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và các cơ chế, chính sách đặc biệt, đặc thù tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về nguồn lực, nhân lực, cơ sở vật chất, quy hoạch, chuyển đổi số, hệ thống cơ sở dữ liệu; chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, bảo đảm không chồng chéo, trùng lắp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả.
Song song với phát triển kinh tế, Phú Thọ chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân, giữ vững quốc phòng – an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và xây dựng thương hiệu nhận diện tỉnh, tạo nền tảng vững chắc để Đất Tổ bứt phá mạnh mẽ trong giai đoạn phát triển mới.